19/05/2023 14:35
Nhìn lại kinh tế Nga: Tiền không phải là công cụ để kiềm chế xung đột tại Ukraina (bài 1)
Chính phủ Mỹ rõ ràng hy vọng vào "những hậu quả to lớn, chưa từng có" mà nước này và các đồng minh đã gây ra cho Nga, bao gồm cả "chi phí kinh tế nghiêm trọng và lâu dài", sẽ giúp cản trở cuộc xung đột Nga-Ukraina.
Tuy nhiên, trong cả năm qua, bất chấp việc phương Tây liên tục thắt chặt các biện pháp trừng phạt, nền kinh tế Nga đã lấy lại thế cân bằng. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo kinh tế Nga sẽ tăng trưởng 0,7% trong năm nay - bằng với Pháp, trong khi kinh tế Anh và Đức thậm chí suy giảm. Điều này khiến kỳ vọng của Washington dần bị xua tan.
Tuy nhiên, theo The Economist, sự tuyệt vọng này cũng sai lầm như sự phấn khích ban đầu của ông Blinken, với sự thừa nhận của chính Tổng thống Nga Vladimir Putin rằng: "Những hạn chế vô lý áp đặt lên nền kinh tế Nga trong trung hạn thực sự có thể có tác động tiêu cực".
Câu hỏi đặt ra không phải là liệu Nga có thể chịu được một cuộc xung đột kéo dài hơn nữa hay không (bởi Nga hoàn toàn có khả năng), mà là liệu nước này có đủ khả năng hỗ trợ cho việc tăng cường những xung đột mà Nga có thể sẽ cần để thay đổi cục diện trên thực địa hay không. Điều này dường như là không thể.
Những kỳ tích đạt được
Nước Nga đã đạt được ba kỳ tích trong 14 tháng qua: Tìm được cách ứng phó với hàng loạt lệnh trừng phạt mà ông Blinken đã báo trước; cung cấp đủ nhân lực và vật chất để thúc đẩy cuộc xung đột; không làm giảm mạnh mức sống và điều kiện sống của người dân, điều có thể dẫn đến bất ổn. Tuy nhiên, bất kỳ nỗ lực leo thang xung đột chắc chắn sẽ hủy hoại những thành công này.
Nga đang phải đối phó với hàng loạt lệnh trừng phạt lớn nhất từng được áp dụng đối với một nước lớn, bao gồm cả các cá nhân liên quan đến xung đột, các giao dịch tài chính liên quan đến các thực thể của Nga, xuất khẩu một số hàng hóa sang Nga và nhập khẩu hầu hết hàng hóa từ Nga.
Tuy nhiên, cuộc tấn công kinh tế này chỉ mang lại kết quả đáng thất vọng, một phần vì luôn có những lỗ hổng lớn trong chế độ trừng phạt và một phần vì Nga đã tìm ra cách vượt qua một số hạn chế ban đầu.
Một số biện pháp phô trương nhất nhằm vào các nhà tài phiệt và những người thân cận khác của chính quyền ông Putin. Công ty dữ liệu World-Check ước tính 2.215 cá nhân có quan hệ mật thiết với Chính phủ Nga không còn có thể đến một số hoặc tất cả các nước phương Tây, hoặc tiếp cận tài sản của họ ở đó, hoặc cả hai. Một số người Nga giàu có phàn nàn về vị thế xã hội bị mất. Một số đã rời Nga và từ bỏ quyền công dân.
Tuy nhiên, bất chấp các báo cáo về các siêu du thuyền bị tạm giữ, hầu hết các nhà tài phiệt vẫn ung dung. Các chính phủ nước ngoài đã đóng băng tài sản tư nhân của Nga trị giá khoảng 100 tỷ USD - chỉ khoảng 1/4 trong tổng số 400 tỷ USD giá trị tài sản của các gia đình Nga sở hữu ở nước ngoài.
"Đòn trừng phạt" lớn nhất đối với nhiều người giàu của Nga là các hạn chế đi lại. Vùng biển Riviera của Pháp không nằm trong khu vực bị hạn chế; và Dubai và Antalya là những điểm đến thay thế chính.
Ngược lại, các biện pháp trừng phạt có thể mở đường cho việc tạo ra một thế hệ tài phiệt mới. Với việc các công ty phương Tây ồ ạt rời khỏi Nga, có rất nhiều tài sản trị giá hàng trăm tỷ USD đang chờ được định đoạt. Nếu mục đích đằng sau các biện pháp này là gây khó chịu cho những người thân cận của ông Putin, thì có rất ít dấu hiệu cho thấy điều này.
Amadea, một siêu du thuyền trị giá 325 triệu USD, đã neo đậu tại cảng San Diego từ tháng 6/2022, không sử dụng, bị ràng buộc pháp lý ở đó trong nhiều tháng nữa, có thể là nhiều năm nữa. Nó dài 348 feet, với sáu boong, và nó hiện ra lờ mờ trên một công viên ven biển, nơi các gia đình đến dã ngoại và những người câu cá thu. Mỹ tuyên bố chủ sở hữu là một nhà tài phiệt Nga đã bị trừng phạt.
Tác dụng hạn chế của "đòn" trừng phạt
Các biện pháp trừng phạt tài chính cũng có tác dụng hạn chế. Sau khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraina, 10 tổ chức cho vay của Nga đã bị loại khỏi thệ thống thanh toán quốc tế (SWIFT), được hơn 11.000 ngân hàng trên khắp thế giới sử dụng để thanh toán xuyên biên giới. Gần 2/3 hệ thống ngân hàng của Nga không còn có thể xử lý các giao dịch bằng đồng euro hoặc USD.
Tuy nhiên, các nước phương Tây không trừng phạt toàn bộ các ngân hàng của Nga, vì họ cần phải trả tiền dầu và khí đốt nhập khẩu từ "xứ sở bạch dương". Gazprombank, ngân hàng xử lý các khoản thanh toán này, vẫn là thành viên của SWIFT.
Hơn nữa, các tuyến tài chính mới đang được xây dựng để thay thế các tuyến tài chính của phương Tây. Các giao dịch trung bình hàng ngày sử dụng CIPS, giải pháp của Trung Quốc thay thế cho SWIFT, tăng 50% kể từ khi xảy ra xung đột tại Ukraina.
Tháng 12 vừa qua, 16% hàng xuất khẩu của Nga được thanh toán bằng đồng nhân dân tệ, tăng từ mức gần như bằng 0 trước xung đột. Khoảng cách hẹp giữa giá bán và giá mua đồng nhân dân tệ của các ngân hàng Nga cho thấy một thị trường thanh khoản. Một số giao dịch quốc tế cũng được thanh toán- mặc dù khó khăn- bằng đồng rupee của Ấn Độ và dirham của Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE).
Việc hạn chế xuất khẩu một số hàng hóa sang Nga cũng gây thất vọng. Mỹ và các đồng minh đã cấm bán cho Nga hàng nghìn mặt hàng công nghệ cao, trong khi nhiều hãng phương Tây từng hoạt động tại Nga đã tự nguyện rút khỏi nước này.
Theo số liệu của Viện KSE thuộc Trường kinh tế Kiev, gần một nửa trong số khoảng 3.000 công ty toàn cầu tại Nga đã cắt giảm hoạt động tại nước này. Năm ngoái, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Nga giảm 25%.
Tuy nhiên, Nga vẫn tiếp tục nhập khẩu ở mức gần bằng mức trước cuộc xung đột. Các đối tác thương mại mới đã xuất hiện để thay thế phương Tây. Trung Quốc hiện bán sang Nga gấp đôi so với năm 2019. Nhập khẩu "song song", là việc bán trái phép các loại hàng hóa, từ đồ uống trái phép tới chip máy tính, từ phương Tây sang Nga thông qua nước thứ ba tăng vọt.
Năm 2022, nhập khẩu từ EU vào Armenia đã tăng gấp đôi một cách bí ẩn, trong khi xuất khẩu của Armenia sang Nga tăng gấp ba lần. Xuất khẩu điện thoại của Serbia sang Nga tăng từ 8.518 USD năm 2021 lên 37 triệu USD năm 2022. Các lô hàng máy giặt từ Kazakhstan đến Nga đã tăng từ con số 0 vào năm 2021 đã tăng lên gần 100.000 chiếc vào năm ngoái.
Các giao dịch này có những hạn chế. Các trung tâm kinh tế của Nga gần Brussels hơn Bắc Kinh. Chi phí vận chuyển cao hơn nghĩa là giá cao hơn. Người dân cũng có ít sự lựa chọn hơn trước. Theo một cuộc khảo sát gần đây của công ty nghiên cứu thị trường Romir (Nga), 2/3 người dân Nga cho rằng chất lượng sản phẩm họ mua đang xuống cấp.
Hơn nữa, không phải tất cả hàng hóa đều có thể được cung cấp đủ số lượng thông qua các kênh phụ. Nhiều loại thuốc do Nga sản xuất phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu đang bị thiếu hụt. Trong khi đó, ngành công nghiệp xe hơi đang phải vật lộn với tình trạng thiếu chất bán dẫn nhập khẩu. Sản xuất đã giảm 70% trong giai đoạn từ tháng Một đến tháng Hai so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, ngay cả khi không thể sản xuất nhiều ô tô nữa, Nga vẫn có thể nhập khẩu. Sau Lada, một thương hiệu nổi tiếng của Liên Xô cũ, Haval, thương hiệu tầm trung của Trung Quốc, giờ đây là thương hiệu phổ biến nhất ở Nga. Doanh thu hàng tháng của hãng này tăng 331% trong năm qua.
Bằng cách nào đó, Nga dường như cũng đang nắm giữ các bộ phận cần thiết để đảm bảo hoạt động trên không của các máy bay dân sự. Tác động của các biện pháp trừng phạt đối với xuất khẩu của Nga đã lớn hơn, song các nước phương Tây luôn tránh đưa ra các biện pháp trừng phạt quá nghiêm khắc do lo ngại đẩy giá năng lượng lên mức không thể chịu nổi đối với người tiêu dùng trong nước.
Nhập khẩu khí đốt từ Nga của EU đã giảm đáng kể. Nga ít có khả năng chuyển hướng xuất khẩu sang Trung Quốc do đường ống nối giữa hai nước nhỏ. Vận chuyển nhiều hơn bằng đường biển cần có các nhà máy hóa lỏng mới, vốn mất thời gian để xây dựng và cần công nghệ tinh vi. Công ty tư vấn Rystad Energy dự báo doanh số bán khí đốt của Nga sẽ giảm xuống còn 136 tỷ m3 vào năm 2023, từ 241 tỷ m3 trong năm 2021.
Bởi vì các quốc gia châu Âu và châu Á phụ thuộc nhiều vào năng lượng của Nga hơn là Mỹ, lệnh cấm xuất khẩu rất khó đàm phán trong liên minh và đòi hỏi các thỏa hiệp cần nhiều tháng để đạt được.
Tiền không phải là một công cụ hạn chế
Tuy nhiên, dầu dễ thay thế hơn. Tháng 12/2022, EU- từng mua hơn 40% lượng dầu thô xuất khẩu của Nga trong năm 2021- áp đặt lệnh cấm nhập khẩu dầu, đồng thời cấm các công ty vận chuyển, bảo hiểm và tài chính tạo hỗ trợ việc bán dầu thô Nga cho người mua ở các quốc gia khác trừ phi giá mỗi thùng dưới mức 60 USD.
Vào tháng 2/2023, một gói trừng phạt tương tự đã có hiệu lực đối với dầu tinh chế của Nga, một mặt hàng xuất khẩu nhỏ hơn nhưng có lãi cao, phần lớn cũng được xuất khẩu sang châu Âu trước xung đột.
Tuy nhiên, các nước châu Á rất vui được tiêu thụ lượng dầu mà châu Âu đang từ chối. Theo ước tính của Reid I'Anson thuộc công ty dữ liệu Kpler, gần 90% tổng xuất khẩu dầu thô của Nga trong tháng 3 là sang Trung Quốc và Ấn Độ, so với mức 25% trước khi xung đột xảy ra. Trong tháng này, Nga vận chuyển trung bình 3,7 triệu thùng mỗi ngày, cao hơn mức năm 2021. Doanh số bán các sản phẩm tinh chế như dầu diesel cũng tăng mạnh trong tháng Ba.
Một hệ sinh thái mới gồm các thương nhân và chủ hàng ngầm, chủ yếu có trụ sở tại Khu hành chính đặc biệt Hong Kong (Trung Quốc) và Dubai, đã xuất hiện, giúp vận chuyển các thùng hàng bị cấm vận đến các điểm đến mới, thường là với sự giúp đỡ của các công ty bảo hiểm và cho vay của Nga.
Những người mua mới này, cộng với giá hàng hóa tăng một phần do xung đột, giúp đẩy thặng dư tài khoản vãng lai của Nga lên mức kỷ lục 227 tỷ USD, chiếm 10% GDP.
Tuy nhiên, khó có thể chứng kiến một năm bội thu nữa. Giá dầu Brent đã giảm xuống dưới 85 USD/thùng từ mức trung bình 100 USD/thùng trong năm 2022. Urals, loại dầu chính của Nga, hiện được bán với giá chiết khấu cao tại các cảng của Nga, có giá trung bình dưới 50 USD/thùng vào tháng 1 và tháng 2, theo Bộ Tài chính, so với mức trung bình 76 USD/thùng trong năm 2022.
Nga sẽ cần mức giá trên 100 USD/thùng để cân bằng ngân sách, theo các nhà phân tích. Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho rằng doanh thu từ dầu mỏ của Nga trong tháng 3 thấp hơn 43% so với một năm trước đó. Các nhà kinh tế dự báo thặng dư tài khoản vãng lai của nước này sẽ giảm xuống mức 3-4% GDP trong năm nay, tương đương với mức trung bình trong những năm 2010.
Doanh số bán hydrocarbon thấp hơn có nghĩa là doanh thu của chính phủ thấp hơn. Năm 2022, Chính phủ Nga đã thâm hụt khoảng 3.000 tỷ ruble (37 tỷ USD), tương đương 2% GDP. Năm nay chính phủ dự kiến mức tương tự, nhưng dữ liệu thuế và chi tiêu thực trong năm nay cho thấy dự kiến này có vẻ quá lạc quan. Có nhiều khả năng mức thâm hụt sẽ ở mức 10.000 tỷ ruble, tương đương 5% GDP, là tỷ lệ cao theo tiêu chuẩn của Nga.
Tuy nhiên, nhà nước Nga có rất nhiều lựa chọn để tự tài trợ. Quỹ đầu tư quốc gia của Nga vẫn có khoảng 150 tỷ USD (khoảng 10% GDP), ngay cả sau khi bị rút khoảng 30 tỷ USD vào năm ngoái. Chính phủ cũng có thể phát hành thêm nợ. Xuất khẩu bội thu năm ngoái giúp các công ty năng lượng lớn của Nga có rất nhiều tiền mặt.
Những công ty này, phần lớn thuộc sở hữu nhà nước, cũng có thể bị đánh thuế lợi tức phụ thu (windfall tax), giống như năm ngoái. Các tổ chức tài chính của Nga nắm giữ tài sản đủ để trang trải khoản thâm hụt 10.000 tỷ ruble trong 25 năm, một nguồn tài nguyên khổng lồ mà chính phủ có thể tìm cách khai thác theo cách nào đó.
Chuyên gia về kinh tế Nga tại Viện Nghiên cứu Quốc phòng và An ninh Hoàng gia Anh (RUSI), Richard Connolly, cho biết chính phủ luôn có thể tự tài trợ bằng cách lấy tiền từ các công ty lớn.
Nói cách khác, tiền sẽ không phải là một hạn chế nghiêm trọng đối với nỗ lực gia tăng hành động của Nga đối với tình hình xung đột tại Ukraina. Nhu cầu về ngân sách cho mục đích này trong mọi trường hợp vẫn thấp.
Theo ước tính của The Economist dựa trên so sánh số liệu chi tiêu thực tế với ngân sách được lập trước chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraina hiện đang tiêu tốn của nước này khoảng 5.000 tỷ ruble mỗi năm, tương đương 3% GDP, thấp hơn mức Mỹ chi cho cuộc xung đột tại Triều Tiên.
Bài cuối: Nhìn lại kinh tế Nga: Những thách thức thực sự
(Nguồn: TTXVN/The Economist)
Tin liên quan
Chủ đề liên quan
Advertisement