26/06/2022 11:04
Mỹ chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách nào?
Trong một bài viết đăng trên trang mạng "foreignpolicy" mới đây, ông Sam Roggeveen, Giám đốc Chương trình An ninh Quốc tế thuộc Viện nghiên cứu Lowy ở Australia, cho rằng sự kiện này thể hiện tham vọng của Trung Quốc muốn trở thành cường quốc quân sự có vị thế và tầm hoạt động toàn cầu.
Điều này cũng báo hiệu Trung Quốc sẵn sàng cạnh tranh với Mỹ ở nơi lâu nay được coi là thế mạnh nhất của Mỹ và nói với Mỹ rằng bất cứ điều gì Mỹ làm được, Trung Quốc cũng làm được to hơn và tốt hơn.
Tàu Phúc Kiến thua kém tàu sân bay Mỹ
Tuy nhiên, khi đi sâu vào phân tích về tàu sân bay mới nhất và những chiếc thuộc thế hệ tiếp theo của Trung Quốc, tác giả Sam Roggeveen và một số chuyên gia khác cho rằng Trung Quốc vẫn còn một con đường dài ở phía trước mới trở thành một thách thức nghiêm túc đối với Mỹ về hải quân.
Theo các bài viết trên các báo và tạp chí "Foreign Policy", "Naval News", "Stars and Stripes" và "Business Insider", tàu Phúc Kiến - thuộc lớp Type 003, có lượng choán nước khi đủ tải là 80.000 tấn - là bước tiến lớn so với 2 tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc.
Hai tàu Liêu Ninh (Type 001) và Sơn Đông (Type 002) có kích thước nhỏ hơn với đường băng kiểu "nhảy cầu" nên chở được ít máy bay và các máy bay bị hạn chế về nhiên liệu, đạn dược. Tuy nhiên, tàu Phúc Kiến có máy phóng máy bay dùng công nghệ điện từ.
Về mặt này, tàu Phúc Kiến đuổi kịp loại công nghệ mới nhất trên tàu sân bay mới của Mỹ là USS Gerald Ford, được chính thức đưa vào hoạt động từ năm 2017 và cũng là tàu duy nhất cho đến nay của Mỹ dùng công nghệ đó. 10 tàu sân bay còn lại của Mỹ dùng máy phóng bằng hơi nước.
Tuy nhiên, các báo và tạp chí nói trên dẫn phân tích của giới chuyên gia chỉ ra rằng tàu Phúc Kiến còn thua kém các tàu sân bay Mỹ về 2 khía cạnh quan trọng, đó là nó có 3 máy phóng, ít hơn tàu Mỹ 1 máy; và chỉ có 2 vận thang để nâng, hạ máy bay, trong khi các tàu Mỹ có 3 hoặc 4 vận thang.
Vì vậy, có những ước tính rằng Phúc Kiến chỉ có thể vận hành với khoảng 40 máy bay các loại, ít hơn đáng kể so với phi đội từ 70-80 máy bay trên 1 tàu sân bay Mỹ. Tàu Phúc Kiến của Trung Quốc còn có một bất lợi lớn so với mọi tàu sân bay Mỹ ở chỗ nó không chạy bằng năng lượng hạt nhân nên bị phụ thuộc vào các tàu phụ trợ để có thể đi xa và hoạt động lâu ngày.
Brian Hart, nhà nghiên cứu về sức mạnh của Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), nói với "Stars and Stripes" rằng tàu Phúc Kiến chỉ có kích thước và sức đẩy ngang với lớp tàu Kitty Hawk của Mỹ thuộc đời những năm 1960.
Các báo và tạp chí của Mỹ và phương Tây cho rằng tàu Phúc Kiến chưa thể đi vào hoạt động chính thức ngay mà sẽ mất ít nhất 18 tháng trải qua các thử nghiệm, thao dượt phức tạp. Do đó, nếu không có vấn đề bất thường gì thì sớm nhất là vào năm 2024 tàu này mới được đưa vào biên chế.
Kinh nghiệm thực tế của hải quân Mỹ cho thấy tàu USS Gerald Ford của Mỹ hạ thủy năm 2013 nhưng phải mất 4 năm thử nghiệm và giải quyết các vấn đề phát sinh mới được đưa vào hoạt động chính thức hồi năm 2017. Một nhà nghiên cứu khác về sức mạnh của Trung Quốc, Matthew Funaiole, cũng thuộc trung tâm CSIS ở thủ đô Washington (Mỹ), lưu ý rằng việc vận hành tàu sân bay có máy phóng máy bay là điều hoàn toàn mới đối với Trung Quốc.
Ông nói: "Không giống như Mỹ, Trung Quốc không có hàng chục năm kinh nghiệm về việc vận hành các hệ thống phóng bằng hơi nước, nên nhiều khả năng họ sẽ tiến chậm mà chắc. Các phi công và người điều hành phải được huấn luyện để sử dụng hệ thống phóng trong các môi trường khác nhau, và đó là nhiệm vụ khó khăn. Có nhiều tiềm năng nhưng cũng có nhiều điều chưa biết hết, đồng nghĩa với việc có thể có nhiều sự cố nếu họ làm mọi việc quá nhanh chóng".
Trung Quốc nhắm mục tiêu dài hạn
Nhà nghiên cứu Brian Hart của CSIS dự báo rằng Trung Quốc sẽ không dừng lại ở tàu Phúc Kiến mà vẫn sẽ tiếp tục tăng số lượng tàu sân bay, nhưng hải quân Trung Quốc còn mất nhiều thập kỷ mới bằng được hạm đội tàu sân bay của Mỹ về số lượng và mức độ hiện đại. Có tin cho biết Trung Quốc sẽ đóng 3 tàu sân bay thuộc lớp Type 004 chạy bằng năng lượng hạt nhân, cũng như có kích thước và năng lực vận hành không kém gì các tàu hiện đại nhất của Mỹ.
Như vậy, trong tương lai, hải quân Trung Quốc sẽ có tổng cộng 6 tàu sân bay. Mặc dù vậy, ông Roggeveen nhận định rằng Trung Quốc không cố để đạt mức độ "một chín một mười" về số lượng và chất lượng với tàu sân bay của Mỹ mà có lẽ họ nhắm đến kế hoạch dài hơi hơn.
Ông nói: "Tôi không nghĩ rằng dự án tàu sân bay của Trung Quốc đặt mục đích ngang tầm Mỹ. Nó nhắm nhiều hơn đến việc xây dựng lực lượng hải quân thời 'hậu Mỹ', tức là một hạm đội có thể được sử dụng để cưỡng ép hoặc trừng trị các nước nhỏ hơn khi mà sự ảnh hưởng của Mỹ ở châu Á suy giảm".
Trung Quốc đã hiện đại hóa và tăng quy mô lực lượng quân sự của họ, theo đó, năm 2021, hải quân của nước này có số lượng lớn nhất thế giới. Một báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ vào tháng 11/2021 cho biết hải quân Trung Quốc có 355 tàu các loại và dự kiến đến năm 2030 sẽ có 460 tàu.
Về phía Mỹ, hải quân nước này có 298 tàu và đang nỗ lực đề nghị Quốc hội duyệt kế hoạch để Mỹ có 367 tàu vào năm 2052. Nhà nghiên cứu Hart nói: "Việc Trung Quốc tăng cường quân sự đang làm thay đổi mạnh cán cân sức mạnh ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Tôi không nghĩ rằng Washington có các bước đi cần thiết để chuẩn bị đầy đủ cho bản thân và các đồng minh cũng như đối tác trong khu vực để ứng phó với thách thức ngày càng tăng về quân sự từ phía Trung Quốc".
Đối sách nào cho các nước châu Á?
Ông Roggeveen cho rằng hầu hết các nước châu Á đều muốn có một tương lai mà trong đó Trung Quốc không phải là một cường quốc thống trị. Tuy nhiên, họ cũng nhận thấy Mỹ không thể duy trì lợi thế về quân sự trước một đối thủ lớn như vậy. Do đó, ông Roggeveen cho rằng điều đầu tiên trong bất cứ biện pháp nào chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc là phải thừa nhận rằng không thể phó mặc mọi việc cho Mỹ.
Các cường quốc khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cần nhận ra rằng việc ứng phó với Trung Quốc không phải chỉ là về mặt quân sự, mà phải bằng sự lãnh đạo quốc gia khôn khéo, bằng các nỗ lực ngoại giao và kinh tế để Trung Quốc nản lòng trong việc xây dựng mối quan hệ "thiên triều-chư hầu" ở châu Á. Nhà nghiên cứu này chỉ ra rằng chính Trung Quốc cũng là hình mẫu để các nước châu Á xây dựng chiến lược biển của họ.
Trong nhiều thập kỷ trước, Trung Quốc không tìm cách thống trị trên biển mà chỉ tìm cách cản đường thống trị của Mỹ. Họ đã xây dựng năng lực to lớn về chống hạm với các tàu ngầm, máy bay mang tên lửa chống hạm, tàu hải quân nhỏ tốc độ cao "bắn rồi chạy", và cả tên lửa đạn đạo có thể bắn mục tiêu di động trên biển.
Kết quả là vùng biển gần bờ của Trung Quốc cực kỳ nguy hiểm đối với các tàu nổi của hải quân Mỹ. Với quy mô nhỏ hơn, các nước khác cũng có thể áp dụng cách đó để chống lại hạm đội ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc.
Theo ông Roggeveen, các nước nhỏ ở châu Á cũng có thể xây dựng chiến lược "không cho tiếp cận" với trọng tâm đặt vào tên lửa chống hạm, tàu ngầm, thủy lôi và các vũ khí khác để không cho hạm đội Trung Quốc tự do đi lại. Với cách đầu tư thông minh, ông Roggeveen cho rằng các nước châu Á có thể làm suy yếu tiềm năng của hạm đội Trung Quốc và ngăn chặn họ trở thành thế lực thống trị.
Tin liên quan
Chủ đề liên quan
Advertisement