Advertisement

Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

Lạm phát, gián đoạn chuỗi cung ứng làm suy giảm chứng khoán châu Á

Chứng khoán

27/06/2022 06:27

Các thị trường châu Á mới nổi đang trải qua nửa năm tồi tệ nhất trong hơn một thập kỷ, khi các nhà đầu tư rút lui khỏi các công ty công nghệ lớn trong khu vực, trong khi lo ngại suy thoái gia tăng.

Các đợt tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương, hậu quả của việc Trung Quốc đóng cửa nghiêm trọng và gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu là nguyên nhân đằng sau tâm lý xấu đi của các nhà đầu tư. Các nhà phân tích cho rằng các thị trường khu vực có thể gặp khó khăn trong việc thu hút dòng vốn trong năm nay, với tốc độ tăng lãi suất của ngân hàng trung ương tạo ra sự không chắc chắn chính trong ngắn hạn.

Nhiều rủi ro từ sự bùng phát đại dịch COVID-19 và cuộc xung đột Nga - Ukraina cũng có thể đè nặng lên các nỗ lực phục hồi nói chung.

Tính đến ngày 226, MSCI AC Asia ex-Japan Index - thước đo các cổ phiếu được theo dõi nhiều nhất của khu vực bên ngoài Nhật Bản - đã giảm khoảng 18% trong năm nay so với sáu tháng trước đó. Đây là mức giảm lớn nhất trong nửa năm kể từ cuối năm 2011. Chỉ số này chủ yếu bao gồm các thị trường mới nổi với Trung Quốc và Đài Loan chiếm khoảng một nửa, Hàn Quốc và Ấn Độ với khoảng 15% mỗi thị trường.

Lạm phát, gián đoạn chuỗi cung ứng làm suy giảm chứng khoán châu Á - Ảnh 1.

Tính đến ngày 22/6, chỉ số MSCI AC Asia ex-Japan - thước đo các cổ phiếu được theo dõi nhiều nhất của khu vực bên ngoài Nhật Bản - đã giảm khoảng 18% trong năm nay so với sáu tháng cuối năm 2021, mức lớn nhất trong nửa năm giảm kể từ cuối năm 2011.

Aninda Mitra, người đứng đầu chiến lược đầu tư và vĩ mô khu vực châu Á tại BNY Mellon Investment Management ở Singapore, cho biết: "Cú sốc kép giữa lạm phát cao và thắt chặt chính sách mạnh mẽ tại các nền kinh tế phát triển lớn đang dẫn đến khủng hoảng chi phí sinh hoạt và hoạt động chậm lại".

Vào tháng 3, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã nâng lãi suất chính sách lần đầu tiên sau khoảng ba năm. Khi lạm phát tiếp tục tăng cao, Fed đã quyết định tăng lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm vào tháng 5, mức tăng lớn nhất trong 22 năm và thêm 0,75% vào giữa tháng 6 - mức tăng lãi suất lớn nhất kể từ năm 1994.

Mitra cho biết: "Những điều này quan trọng đối với châu Á, vì hầu hết các quốc gia thị trường mới nổi đều rất cởi mở với thương mại và dễ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của nhu cầu toàn cầu". "Do đó, sự đi xuống trong kỳ vọng tăng trưởng và thu nhập đã kéo hầu hết các chỉ số chứng khoán châu Á xuống thấp hơn".

Châu Âu cũng đã bị ảnh hưởng. Ngân hàng Trung ương châu Âu đầu tháng này thông báo sẽ chấm dứt nới lỏng định lượng từ tháng 7 và nâng lãi suất lần đầu tiên sau 11 năm. Ngân hàng Trung ương Anh đã tăng lãi suất trong 5 cuộc họp liên tiếp kể từ tháng 12/2021.

Peggy Mak, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại SAC Capital, một chuyên gia tư vấn doanh nghiệp, cho biết: "Các ngân hàng trung ương dường như ngày càng phải tăng cường chu kỳ tăng giá của mình, trước những bất ngờ tiếp tục tăng lên về lạm phát".

Bà nói: "Các thị trường đang định giá vì lo ngại rằng những nỗ lực làm giảm lạm phát này có thể dẫn đến sự phá hủy nhu cầu, kéo các nền kinh tế vào suy thoái".

Lần cuối cùng MSCI AC Asia ex-Japan Index chứng kiến sự sụt giảm lớn như vậy là vào nửa cuối năm 2011 khi nó giảm 19% sau thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật Bản. Thảm họa đã làm tổn hại một phần đáng kể chuỗi cung ứng của thế giới, đáng chú ý nhất là trong ngành công nghiệp ô tô.

Lạm phát, gián đoạn chuỗi cung ứng làm suy giảm chứng khoán châu Á - Ảnh 2.

Cổ phiếu châu Á giảm mạnh nhất trong nửa năm kể từ năm 2011.

Trong năm 2011, một loạt các cuộc khủng hoảng nợ có chủ quyền gia tăng khi châu Âu phải vật lộn để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ của Hy Lạp và giảm bớt áp lực tài khóa ở Ý và Pháp. Bất chấp nỗ lực tái cơ cấu của các nhà chức trách, các nhà đầu tư vẫn lo ngại Khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể bước vào một cuộc suy thoái khác, tác động đến các đối tác thương mại của nó ở các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc.

Các thị trường châu Á mới nổi đều giảm điểm vào thời điểm đó, với Chỉ số tổng hợp SSE của Thượng Hải giảm mạnh nhất 20%. Chỉ số Hang Seng của Hồng Kông, Chỉ số cổ phiếu có tỷ trọng vốn hóa Đài Loan và chỉ số BSE Sensex chuẩn của Ấn Độ đều giảm khoảng 18%.

Tuy nhiên, trong năm nay, sự sụt giảm ở các thị trường châu Á mới nổi bắt nguồn từ việc lãi suất tăng và nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại. Các cổ phiếu công nghệ tăng trưởng cao đã không thể giữ được mức định giá cao.

Chỉ số MSCI AC Châu Á ngoài Nhật Bản đánh giá cao lĩnh vực công nghệ, chiếm khoảng 25% tổng giá trị của nó, và đây là lý do chính dẫn đến sự suy thoái trong năm nay. Điều này đặc biệt nghiêm trọng đối với chứng khoán Hàn Quốc và Đài Loan với xu hướng giảm giá bán dẫn do lo ngại về lượng hàng tồn kho tăng lên.

Theo Nikkei Asia, trong tháng này rằng Samsung đang tạm dừng các đơn đặt hàng mua sắm mới và yêu cầu các nhà cung cấp trì hoãn hoặc giảm các lô hàng linh kiện và phụ tùng cho đến cuối tháng 7 vì lượng hàng tồn kho cao.

Phản ánh nhu cầu tiêu dùng suy yếu và lạm phát toàn cầu gia tăng, động thái này của nhà sản xuất điện thoại thông minh và TV lớn nhất thế giới đã ảnh hưởng đến các nhà cung cấp linh kiện, chẳng hạn như tấm nền và chip.

Tương tự như vậy ở Đài Loan, nơi chỉ số theo dõi các công ty như Taiwan Semiconductor Manufacturing Co. và MediaTek, một số tập đoàn đang đứng trước nguy cơ nhu cầu yếu và hàng tồn kho cao. Mak tại SAC Capital cho biết điều này chỉ ra rằng "việc tích trữ hàng tồn kho chậm hơn trong nửa cuối năm và có thể sẽ hết hàng trong quý đầu tiên của năm 2023".

Hơn nữa, những người chơi có trọng lượng lớn bao gồm các công ty như TSMC, Tencent Holdings và Samsung Electronics. Ba công ty có tỷ trọng hàng đầu là những công ty giảm giá hàng đầu, với mỗi công ty đã giảm khoảng 20% giá trị trong năm nay.

Các công ty lớn của Trung Quốc là một trong những công ty hoạt động kém hiệu quả nhất trong khu vực. Các đợt phong tỏa ở các thành phố lớn đã ảnh hưởng đến người tiêu dùng của những gã khổng lồ thương mại điện tử như Alibaba, DJ và Meituan.

Andy Budden, Giám đốc Đầu tư tại Capital Group cho biết: "Sự hồi sinh của COVID và việc áp dụng rộng rãi các biện pháp phong tỏa sau đó đã tác động lớn đến hoạt động kinh tế và động lực của quốc gia".

Trong khi đó, các thị trường Đông Nam Á - tương đối nhỏ so với các thị trường Đông Á mới nổi - là một trong những thị trường tăng điểm trong giai đoạn bất ổn này. Mitra tại BNY Mellon Investment Management cho biết: "Thị trường vốn chủ sở hữu của các nhà xuất khẩu hàng hóa ròng - và các nền kinh tế châu Á ít cởi mở hơn - đã hoạt động tương đối tốt".

Lạm phát, gián đoạn chuỗi cung ứng làm suy giảm chứng khoán châu Á - Ảnh 3.

Các quốc gia sử dụng nhiều công nghệ ở châu Á chịu nhiều thiệt hại nhất.

Các quốc gia như Indonesia và Malaysia là những điểm sáng tương đối trong khu vực. Họ đã được hưởng lợi từ việc mở cửa trở lại sau đại dịch COVID-19, lạm phát dịu hơn và triển vọng hàng hóa nói chung là tích cực. Chỉ số MSCI của Indonesia tính đến thời điểm hiện tại đã tăng 4,6% trong năm nay. Mặc dù Malaysia giảm 8,6%, nhưng mức giảm là nhỏ so với các nước cùng khu vực.

Mặc dù là một nền kinh tế mở và không phải là nước xuất khẩu hàng hóa ròng, Thái Lan cũng đã thành công nhờ thị trường mở cửa trở lại sau các hạn chế của đại dịch, và đồng Baht suy yếu của Thái Lan đã cải thiện định vị cạnh tranh và lợi nhuận cho các công ty Thái Lan. Cũng có khả năng phục hồi du lịch khiêm tốn trong năm nay, mặc dù ngành này vẫn còn lâu mới tạo ra 20% tổng sản phẩm quốc nội mà nó quản lý vào năm 2019.

Sailaja Devireddy, người đứng đầu dịch vụ tiếp thị quỹ tại Acuity Knowledge Partners, một công ty nghiên cứu tài chính Ấn Độ, cho biết: "Sự mở cửa trở lại của các nền kinh tế là điềm tốt cho các quốc gia dựa vào hàng hóa và du lịch, đặc biệt là các nền kinh tế ở châu Á với dân số nội địa khá lớn.

Mặc dù vậy, một số nhà phân tích tin rằng mối nguy lớn nhất đối với triển vọng tươi sáng hơn này là liệu các ngân hàng trung ương Đông Nam Á có thể điều chỉnh bình thường hóa chính sách tiền tệ một cách hợp lý hay không. Nếu các ngân hàng trung ương tăng lãi suất quá nhanh sẽ có nguy cơ kìm hãm tăng trưởng kinh tế, trong khi việc tăng lãi suất quá chậm có thể kích thích dòng vốn chảy ra ngoài và đồng tiền mất giá.

Theo Moody's Analytics, gần như tất cả các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương đã bắt đầu bình thường hóa chính sách tiền tệ, ngoại trừ Việt Nam, Thái Lan và Indonesia. Mỗi bên có khả năng sẽ bắt đầu thắt chặt chính sách trong quý III năm nay, nếu không phải vào cuối tháng 6, sau đợt tăng mạnh 0,75% của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trong tháng này.

Mak tại SAC Capital cho biết: "Các thị trường mới nổi có thể không thể tăng lãi suất với tốc độ tương tự, vì điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu và làm suy yếu khả năng vay của các doanh nghiệp trong nước. "Nhưng nếu không theo kịp tốc độ có thể làm suy yếu bảng cân đối tài chính và gây ra nguy cơ bán xuống các đồng tiền của thị trường mới nổi".

(Nguồn: Nikkei)

NGỌC CHÂU
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement