02/07/2022 11:21
COVID-19: Căng thẳng lạm phát tại châu Á 25 năm sau khủng hoảng tài chính
Ngày 2/7/1997, đồng baht lao dốc do Thái Lan từ bỏ chốt giá đồng USD sau khi bị ảnh hưởng bởi việc bán khống.
Ngày hôm đó đánh dấu sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, kéo theo khu vực từ Indonesia đến Hàn Quốc, khiến Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) phải thực hiện các biện pháp giải cứu.
Đúng một phần tư thế kỷ trôi qua, khu vực này phải đối mặt với những thách thức mới. Với việc các nền kinh tế trên toàn thế giới vẫn đang vật lộn để tìm chỗ đứng khi đại dịch COVID-19 lắng xuống, cuộc chiến Ukraina đã khiến giá lương thực và năng lượng tăng vọt.
Trong khi đó, việc IMF chuyển sang thắt chặt tiền tệ đang đe dọa hút vốn ra khỏi châu Á. Nhiều loại tiền tệ trong khu vực đang giảm giá so với đồng USD, điều này làm tăng chi phí của các khoản nợ bằng USD.
Hầu hết các quốc gia ở châu Á đã trở nên bền bỉ hơn trước các cuộc khủng hoảng tài chính trong 25 năm qua, một phần nhờ vào quá trình công nghiệp hóa. Họ giàu hơn và có hệ thống tài chính mạnh hơn.
Nhiều công ty toàn cầu đang đầu tư vào khu vực, cả để khai thác thị trường lao động chi phí thấp hơn và dân số trung lưu ngày càng tăng. Nền kinh tế Trung Quốc đã vượt lên dẫn trước và số hóa đã tiếp thêm động lực cho khu vực.
Các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không còn cố định tiền tệ của họ với đồng bạc xanh, và nhiều nền kinh tế có thặng dư tài khoản vãng lai, nhiều nước có dự trữ ngoại hối lành mạnh, không giống như Thái Lan vào năm 1997, đã cạn kiệt tiền mặt để nuôi đồng baht.
Các khuôn khổ khu vực để cung cấp hỗ trợ lẫn nhau cung cấp một bước đệm hơn nữa. Các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã phát động Sáng kiến Chiang Mai vào năm 2000, một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ cho phép các bên ký kết vay USD của nhau. Bên cạnh nhiều thỏa thuận hoán đổi song phương, 13 quốc gia cũng đã thành lập Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN + 3 (AMRO), một đơn vị giám sát kinh tế vĩ mô khu vực thuộc Sáng kiến Chiang Mai.
Ông Koji Sako, phó giáo sư tại Đại học Quốc tế Josai của Nhật Bản, chỉ ra rằng mặc dù sự phụ thuộc tổng thể của khu vực vào đồng USD không giảm trong 25 năm qua, nhưng khả năng phục hồi của nó đã được cải thiện rất nhiều.
"Các quốc gia như Thái Lan, Malaysia và Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể về mặt công nghiệp hóa trong 25 năm qua, không chỉ do nền kinh tế định hướng xuất khẩu của họ theo hệ thống thương mại tự do. Các quốc gia này còn được hưởng lợi từ sức mạnh đang trỗi dậy của Trung Quốc".
Nhưng tình trạng hỗn loạn toàn cầu ngày nay đang thử thách sự ổn định khó giành được của châu Á hơn bao giờ hết. Các dấu hiệu của rủi ro ngày càng tăng đang xuất hiện.
Theo cơ sở dữ liệu của IMF, gánh nặng nợ chính phủ đã tăng lên ở nhiều nước châu Á trong đại dịch COVID-19. Ví dụ ở Philippines, tỷ lệ nợ công trên tổng sản phẩm quốc nội đã tăng từ 37% vào năm 2019 lên 57,5% vào năm 2021.
Các nền kinh tế nhỏ hơn dựa vào du lịch có xu hướng có tỷ lệ nợ công cao hơn. Nợ công của Maldives tăng từ 78,8% GDP năm 2019 lên ước tính 123,4% vào năm 2021, trong khi của Sri Lanka tăng từ 86,8% lên ước tính 107,2% so với cùng kỳ.
Sri Lanka, quốc gia đã thâm hụt tài khoản vãng lai trong nhiều năm, hiện đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị do lạm phát tăng cao. IMF tháng trước đã cử một nhóm tới quốc đảo Nam Á để thảo luận về một gói giải cứu.
Ngoài khoản nợ do COVID gây ra, nhiều quốc gia đang cố gắng làm dịu bớt đòn lạm phát cho công dân của họ. Nhưng việc phân phát lại là một yếu tố gây căng thẳng hơn nữa đối với tài chính của chính phủ vốn đã căng ra.
AMRO đã chỉ ra trong báo cáo gần đây có tiêu đề: "Giải quyết nợ công và nợ tư nhân cao tích tụ trong đại dịch COVID-19" là một trong những vấn đề quan trọng của khu vực.
Báo cáo cảnh báo: "Khi các nền kinh tế thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay, cả nợ công và nợ tư nhân dự kiến sẽ tăng lên đáng kể. "Quản lý kinh tế vĩ mô sẽ rất khó khăn, đặc biệt là nếu áp lực lạm phát xuất hiện trong bối cảnh khu vực công và tư nhân mắc nợ nhiều và hệ thống tài chính suy yếu".
Trong khi đó, vào tháng Fed nâng lãi suất thêm 0,75%, mức tăng lớn nhất kể từ năm 1994. Động thái đó đã khiến dòng vốn chảy ra ở các nền kinh tế châu Á và gánh nặng nợ bằng đồng USD sẽ tăng lên ở một số nơi.
Một số ngân hàng trung ương ở châu Á cũng đã chuyển sang chế độ thắt chặt. Tuy nhiên, việc thắt chặt nhanh chóng, bằng cách làm cho tín dụng trở nên đắt đỏ hơn, có nguy cơ bóp nghẹt một số công ty phát triển nhanh nhất trong khu vực, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thua lỗ.
Theo Sako, việc thay đổi môi trường kinh doanh cũng có thể là một thách thức. Sự cạnh tranh ngày càng tăng giữa Mỹ và Trung Quốc có thể phá vỡ các liên kết kinh tế trong khu vực Đông Nam Á và ảnh hưởng đến thương mại trong toàn khu vực. Trong một động thái chiến lược gần đây, Mỹ đã khởi động Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương (IPEF) với 13 quốc gia. Nhưng ba nước ASEAN - Campuchia, Lào và Myanmar - không được đưa vào.
Ông Sako nói, việc tập trung toàn cầu nhiều hơn vào các vấn đề nhân quyền cũng có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu của một số nền kinh tế châu Á. "Cách tiếp cận thông thường nhằm thúc đẩy ngày càng nhiều xuất khẩu trong bối cảnh thương mại tự do có thể bị hạn chế nhiều hơn trong tương lai", ông nói và cho biết thêm rằng hoạt động thương mại ảnh hưởng đến số dư tài khoản vãng lai của các chính phủ.
Trong khi các nền kinh tế châu Á dự kiến sẽ tiếp tục phát triển, khu vực này nên tiếp tục nỗ lực để tăng cường khả năng phục hồi tài khóa của mình, chuyên gia kinh tế trưởng của AMRO cho biết.
"Bạn không thể được chuẩn bị quá mức. Bạn phải tiếp tục xây dựng khả năng phục hồi", Hoe Ee Khor của AMRO cho biết trong một cuộc phỏng vấn được công bố trên trang web của IMF. "Các cú sốc luôn luôn khác nhau, nhưng nếu bạn mạnh mẽ, ít nhất bạn có thể chịu được cú sốc".
(Nguồn: Nikkei)
Tin liên quan
Chủ đề liên quan
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp