26/12/2023 07:55
Cuộc khủng hoảng khí hậu ảnh hưởng đến trẻ em như thế nào?
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), mỗi năm, 40 triệu trẻ em trên thế giới bị gián đoạn việc học tập do thiên tai, thành nạn nhân của bọn tội phạm ngày càng trầm trọng và con số này đang tiếp tục gia tăng.
Các nghiên cứu cho thấy khủng hoảng khí hậu không phải là một nguy cơ xa vời mà là một thách thức hiện hữu mà trẻ em nói chung, đặc biệt là trẻ em sinh sống tại các khu vực nông thôn đang phải đối mặt, ảnh hưởng đến cuộc sống và việc học tập của các em.
Rachel Harvey, cố vấn bảo vệ trẻ em của cơ quan Liên Hợp Quốc tại khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, cho biết các loại thảm họa liên quan đến chi tiết có thể làm trầm trọng thêm tình trạng và những rủi ro nguy hiểm mà trẻ em gặp phải như bị bóc lột, buôn bán và bạo lực.
Harvey nói: "Đây là lĩnh vực chúng tôi thực sự quan tâm, đặc biệt vì bảo vệ trẻ em thường không được đề cao trong chương trình nghị luận thảo luận về hoạt động của khí hậu".
Theo UNICEF, những rủi ro này xuất hiện khi hàng chục triệu trẻ em trên thế giới phải di dời chỗ ở do thiên tai. Những trẻ em này thường gặp phải những vấn đề về sức khỏe tinh thần, đặc biệt là những tổn thương tâm lý do bị chia lìa khỏi cha mẹ và người thân hoặc trở thành nạn nhân của tội phạm buôn người.
Theo số liệu của tổ chức nhân đạo Save the Children (Cứu trợ Trẻ em), tính đến cuối năm 2022, ít nhất 1,85 triệu trẻ em ở Nam sa mạc Sahara thuộc châu Phi đã phải di dời nơi ở trong nước do thảm họa khí hậu.
Khi mất nhà ở, trẻ em gần như mất mọi thứ, từ cơ hội tiếp cận y tế, giáo dục cho đến thực phẩm và sự an toàn.
Theo một báo cáo của UNICEF công bố vào tháng 10 với tiêu đề "Thanh niên phải di chuyển trong bối cảnh khí hậu thay đổi", có tới 43,1 triệu trẻ em phải di chuyển trên toàn cầu trong giai đoạn 2016-2021 do lũ lụt, bão, hạn hán và cháy rừng.
Philippines có số lượng cao nhất thế giới với 9,7 triệu người, tiếp theo là Ấn Độ (6,7 triệu) và Trung Quốc (6,4 triệu). Ngoài ảnh hưởng của thiên tai, nguyên nhân khác còn bao gồm quy mô dân số và vị trí địa lý của 3 nước này cũng như do việc triển khai các kế hoạch sơ tán như biện pháp phòng ngừa trước thảm họa.
Bangladesh (3,3 triệu), Indonesia (960.000) và Việt Nam (930.000) cũng nằm trong số 10 quốc gia có tình trạng di chuyển trẻ em nhiều nhất thế giới.
Tuy nhiên, xét về tỷ lệ, châu Phi và các quốc đảo nhỏ lại ghi nhận tỷ lệ trẻ em phải di dời cao nhất. Ví dụ, quốc đảo Dominica ở khu vực Caribe đã ghi nhận 76% trong tổng số trẻ em của nước này phải di dời vì thiên tai trong giai đoạn nghiên cứu nói trên.
Trong tương lai, UNICEF dự báo rằng 96 triệu người phải di chuyển trên toàn cầu do các dòng sông có thể gây ra lũ lụt trong 30 năm tới. Trong khi đó, các cơn bão có thể làm hơn 10,3 triệu trẻ em phải di chuyển trong vòng 30 năm.
Cũng theo UNICEF, mỗi năm, 40 triệu trẻ em trên thế giới bị gián đoạn việc học tập do thiên tai ngày càng trầm trọng và con số này vẫn tiếp tục gia tăng. Biến đổi khí hậu sẽ khiến ít nhất 12,5 triệu trẻ em gái ở 30 quốc gia dễ bị tổn thương bởi khí hậu phải dừng đến trường.
Các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, hư hỏng tại các cơ sở hạ tầng trường học và các tuyến đường đến trường đã làm gián đoạn đáng kể việc tiếp cận giáo dục có chất lượng của trẻ em gái ở Tây Phi, Nam và Trung Mỹ, khu vực Caribe và Đông Nam Á.
Sự gián đoạn này không chỉ cản trở khả năng đến trường học của trẻ em gái mà còn gây ra những hậu quả lâu dài và sâu rộng như làm tăng nguy cơ xảy ra các hành vi có hại như tảo hôn, bạo lực trên cơ sở giới và mang thai sớm.
Việc gián đoạn học tập liên quan đến khủng hoảng khí hậu làm trầm trọng thêm các định kiến giới, gia tăng gánh nặng trách nhiệm gia đình, giảm thời gian học tập và tăng gánh nặng tài chính, khiến cả trẻ em gái và cha mẹ các em gặp khó khăn trong việc chi trả cho học tập.
Trong khi một số quốc gia đã thực hiện các bước để quản lý rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu đang gây áp lực lên các chính phủ trong việc tăng cường lực ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro do di chuyển cũng như các tác động tiêu cực của nó kèm theo.
UNICEF kêu gọi đảm bảo rằng khả năng tiếp cận và dịch vụ chất lượng sẽ được tiếp tục trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế và dinh dưỡng ngay cả khi phải chuyển đổi. Cụ thể hơn, cần lưu ý rằng chính quyền và cộng đồng nên đầu tư nhiều hơn vào hệ thống và dịch vụ bảo vệ trẻ em bằng cách tuyển dụng đủ nhân viên xã hội được đào tạo chuyên môn.
Harvey chỉ ra rằng cần phải có một hệ thống quản lý thông tin và dữ liệu để theo dõi các trường hợp bảo vệ trẻ em.
UNICEF cũng đã đề ra các sáng kiến như khuyến khích mô hình trường học an toàn, hệ thống bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng, nâng cao nhận thức về thiên tai ở trẻ em sử dụng công nghệ tiên tiến và các sáng kiến do thanh niên lãnh đạo cũng như lập bản đồ rủi ro trong trường học và cộng đồng.
(Nguồn: Nikkei Asia)
Tin liên quan
Advertisement
Advertisement