30/01/2024 08:32
Tương lai nguồn cung LNG toàn cầu ra sao sau quyết định của Tổng thống Biden?
Động thái mới nhất của Mỹ, nước xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng hàng đầu thế giới, nhằm trì hoãn việc phê duyệt giấy phép xuất khẩu mới đang gửi đi những tín hiệu trái chiều.
Thập kỷ tiếp theo của khí đốt tự nhiên hóa lỏng dường như đang đi đúng hướng, sau sự hỗn loạn vào năm 2022.
Mỹ, Qatar và một số nước châu Phi sẽ dẫn đầu việc mở rộng sản xuất toàn cầu, châu Âu sẽ tiếp tục chuyển sang sử dụng LNG để hoàn tất việc thoát khỏi Nga, trong khi Trung Quốc và các nước châu Á khác sẽ tìm kiếm LNG để cung cấp cho nền kinh tế của họ, thay thế than đá và bổ sung năng lượng tái tạo.
Sự gia tăng liên tục về khí đá phiến của Mỹ đã đưa nước này trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới từ một nước nhập khẩu LNG vào năm 2015.
Tuy nhiên, bất chấp lo ngại của một số người tiêu dùng khí đốt khi các nhà máy xuất khẩu LNG đầu tiên được cải thiện, hoạt động sản xuất đã không chỉ theo kịp nhu cầu mà còn chạy trước.
Ngoài mức tăng đột biến vào năm 2022, giá trong nước vẫn ở mức thấp, dao động khoảng 2,50 USD/một triệu đơn vị nhiệt của Anh kể từ năm 2012, tương đương khoảng 15 USD/thùng dầu.
Được điều chỉnh theo lạm phát, giá khí đốt của Mỹ chưa bao giờ rẻ đến mức này tính trên cơ sở trung bình hàng năm trong toàn bộ lịch sử giá đánh dấu quốc gia kể từ năm 1989.
Sự hấp dẫn của việc chuyển khí đốt rẻ tiền của Mỹ đến những người tiêu dùng đói khát và trả lương cao hơn ở châu Âu và Đông Á đã thúc đẩy làn sóng đề xuất xuất khẩu LNG mới nhất.
Các dự báo cho thấy Mỹ có thể có công suất xuất khẩu hàng năm là 160 triệu tấn vào năm 2027, vượt qua cả mức tăng 127 triệu tấn của Qatar và vượt xa nhà lãnh đạo trước đó là Australia với khoảng 90 triệu tấn.
Bộ Năng lượng Mỹ sẽ xem xét kỹ lưỡng các dự án mới về tác động môi trường, đồng thời xem xét lại phương pháp luận của mình, đặc biệt là ảnh hưởng của việc rò rỉ khí metan đang nóng lên toàn cầu, thành phần chính của khí đốt tự nhiên.
Dù mang tính kỹ thuật thế nào thì quyết định này vẫn là một quyết định phổ biến đối với phe môi trường của Đảng Dân chủ, nhưng lại không phải là tin tốt đối với vấn đề khí hậu cũng như an ninh năng lượng trên toàn thế giới.
Các đánh giá mới sẽ không ngăn cản lượng xuất khẩu LNG hiện tại là 90 triệu tấn mỗi năm, cũng như các dự án đang được xây dựng có thể tăng gấp đôi con số đó.
Các chuyên gia Trung tâm Chính sách Năng lượng Toàn cầu Columbia, Akos Losz, nhận xét, các dự án bị ảnh hưởng ngay lập tức nhất là những dự án đã ký một số hợp đồng mua bán nhưng chưa đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng.
Có năm trong số này, ba ở Louisiana và hai ở Texas, với tổng công suất dự kiến khoảng 60 triệu tấn hàng năm. Ba trong số đó là phần mở rộng của các nhà máy hiện có, trong khi hai là mới.
Nếu quá trình xem xét kéo dài hoặc nếu một số dự án bị từ chối, điều đó sẽ gây khó khăn cho các khoản đầu tư trong tương lai. Commonwealth LNG đã chờ đợi 4 năm để được phê duyệt, trong khi giấy phép cho một dự án ở Louisiana của Energy Transfer sẽ hết hạn nếu không thể khởi công xây dựng sớm.
Mặt khác, các dự án đang được triển khai, chẳng hạn như Texas LNG, có thể thu hút được sự quan tâm.
Một trong những công ty tham gia vào việc mở rộng, Venture Global, đã bị lôi kéo vào một cuộc chiến pháp lý với một số khách hàng châu Âu, những người cho rằng họ đã phá vỡ hợp đồng giao hàng cho họ vì lý do giả mạo, để có thể bán lại với giá cao hơn ở nơi khác.
Dù tính pháp lý là gì, điều này không mang lại danh tiếng cho LNG của Mỹ về độ tin cậy. Những đánh giá mới và nhận thức về môi trường hoạch định chính sách thất thường ở Washington là một vấn đề tổng quát hơn.
Sự chậm trễ, có thể biến thành lệnh cấm hoàn toàn, không tốt cho khí hậu, bất kể các nhà vận động môi trường nghĩ gì. Sẽ có rất nhiều LNG trên thị trường vào cuối những năm 2020.
Vì vậy, tác động thực sự của bất kỳ sự cản trở nào sẽ là về nguồn cung vào đầu và giữa những năm 2030, khi than sẽ biến mất khỏi hệ thống năng lượng toàn cầu.
Đó có thể là tin tốt cho các đối thủ cạnh tranh với gã khổng lồ LNG của Mỹ, bao gồm cả UAE, quốc gia đang tiến hành xây dựng một nhà máy xuất khẩu lớn mới tại Ruwais, cũng như Canada và một số nước châu Phi.
LNG thấp hơn có thể được thay thế một phần bằng nhiều năng lượng tái tạo hơn, nhưng năng lượng tái tạo hiện đang phát triển nhanh nhất có thể ở nhiều nơi. Ở các nền kinh tế châu Á mới nổi, năng lượng tái tạo không phù hợp với việc sưởi ấm gia đình, nấu ăn hoặc công nghiệp nặng.
Khi các quốc gia như Pakistan không thể tìm thấy LNG với giá cả phải chăng vào năm 2022, họ đã quay trở lại sử dụng dầu nhiên liệu nặng và than đá gây ô nhiễm. Điều tương tự sẽ đúng về lâu dài đối với Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia, Việt Nam và các cường quốc châu Á khác.
Thời điểm đặc biệt tồi tệ vì hai lý do.
Đầu tiên, với cuộc bầu cử tổng thống sắp diễn ra vào tháng 11, người châu Âu và các đồng minh khác của Mỹ đang tự hỏi liệu họ có chứng kiến sự trở lại của Donald Trump hay không – áp dụng nhiều mức thuế hơn, khả năng từ bỏ Ukraine, có thể là Mỹ rút khỏi NATO và ai biết được những điều gì khác sẽ xảy ra? sự hỗn loạn về địa chính trị và địa kinh tế.
Tuy nhiên, về mặt thực tế, sự phát triển liên tục của nền kinh tế "Nước Mỹ trên hết" mà nhiệm kỳ thứ hai của ông Biden sẽ mang lại, cũng không được hoan nghênh cho lắm.
Một ví dụ là quyết định sai lầm khi xem xét lại việc mua US Steel, nhà sản xuất thép lớn thứ tư của đất nước, bởi Nippon Steel, từ Nhật Bản, một đồng minh thân cận của Mỹ.
Điều này gợi nhớ đến chiến dịch phản đối việc Cảng Dubai mua một số cơ sở của Mỹ vào năm 2006, vốn vấp phải sự phản đối tương tự về an ninh quốc gia và bài ngoại.
Những khoản trợ cấp xa hoa của Hoa Kỳ từ Đạo luật Giảm lạm phát cho sản xuất năng lượng mới và nỗ lực đảm bảo nguyên liệu thô thông qua khả năng tự cung tự cấp thay vì hợp tác với các đối tác, đã gây khó khăn cho các công ty vốn có tính cạnh tranh cao hơn ở những nơi khác.
Điều đó làm trì hoãn các kế hoạch carbon thấp. Và việc giảm bớt LNG của Mỹ sẽ giống như một chính sách bỏ đói các ngành năng lượng đang gặp khó khăn ở châu Âu.
Thứ hai, các cuộc tấn công của lực lượng Houthi nhằm vào tàu bè ở Biển Đỏ tiếp tục leo thang. Các cuộc không kích của Mỹ và Anh cho đến nay vẫn chưa ngăn cản được họ.
Hôm thứ Sáu tuần trước, một tàu chở dầu của Anh chở dầu của Nga, được cho là sẽ an toàn đã bị trúng tên lửa và bốc cháy. Qatar đã bắt đầu định tuyến vận chuyển hàng hóa LNG tới châu Âu và châu Phi.
Mối nguy hiểm đối với việc vận chuyển hàng hải qua Biển Đỏ có thể không còn tồn tại. Tuy nhiên, nếu đúng như vậy, điều đó càng củng cố thêm khả năng châu Âu chủ yếu dựa vào LNG từ Mỹ.
Nếu cuộc chiến ở Ukraina cuối cùng lắng xuống thành một cuộc xung đột đóng băng, những người xoa dịu ở các thủ đô châu Âu từ Brussels, Berlin đến Budapest có thể quay lại phụ thuộc vào khí đốt của Nga.
Ngành công nghiệp khí đốt và LNG của Mỹ cần phải cải thiện hoạt động của mình, ngăn chặn đốt cháy và rò rỉ khí mê-tan, cắt giảm khí thải từ tàu, vận hành các nhà máy LNG bằng điện sạch và lắp đặt hệ thống thu hồi và lưu trữ carbon.
Một số dự án mới theo đuổi những phương pháp như vậy. Các đối thủ cạnh tranh của Mỹ sẽ hài lòng nếu sự nhiệt tình sai lầm về môi trường làm cản trở hoạt động của ngành công nghiệp LNG hàng đầu thế giới.
Tin liên quan
Chủ đề liên quan
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp