03/06/2022 08:20
Thị trường nông sản 3/6: Hầu hết các loại nông sản giảm giá
Thị trường nông sản hôm nay 3/6 ghi nhận cà phê quay đầu giảm giá, giá cao su và hồ tiêu ổn định.
Giá cà phê bất ngờ giảm
Giá cà phê hôm nay giảm dao động trong khoảng 42.500 - 43.100 đồng/kg. Cụ thể tại Lâm Đồng: 42.500 đồng/kg, Đắk Lắk: 43.100 đồng/kg, Đắk Nông: 42.900 đồng/kg, Gia Lai: 43.000 đồng/kg, Kon Tum: 43.000 đồng/kg.
Giá cà phê chốt phiên giao dịch ngày 2/6, giá cà phê robusta trên sàn ICE Futures Europe - London kỳ hạn giao tháng 7/2022 tăng 30 USD (1,42%), giao dịch tại 2.136 USD/tấn. Trong khi, kỳ hạn giao tháng 9/2022 tăng 29 USD (1,37%) giao dịch tại 2.139 USD/tấn. Khối lượng giao dịch trung bình.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE Futures US - New York kỳ hạn giao tháng 7/2022 quay đầu giảm, 1,2 Cent (0,5%), giao dịch tại 238,25 Cent/lb. Trong khi, kỳ hạn giao tháng 9/2022 giảm 1,15 Cent/lb (0,48%), giao dịch tại 238,25 Cent/lb. Khối lượng giao dịch tăng mạnh.
Đánh giá về đợt tăng mạnh vừa qua, các chuyên gia cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do thông tin thời tiết ở Brazil. Theo đó, khu vực miền Nam Brazil có mưa rải rác đã ngăn cản việc thu hoạch vụ mùa Arabica chỉ mới khởi đầu, sẽ làm ảnh hưởng chất lượng hạt cà phê đang phơi sấy. Nền nhiệt sẽ giảm mạnh trong những ngày trăng tròn tháng 6 sắp tới, nhưng không có khả năng xảy sương giá trên bất kỳ vùng trồng cà phê nào.
Từ đầu tháng 6/2022, những tín hiệu từ tình hình thời tiết tại Brazil liên tục đẩy giá cà phê trên 2 sàn nối tiếp nhau tăng. Bên cạnh đó, theo các nguồn tin thị trường, khối sản xuất cà phê Arabica chế biến ướt chất lượng cao Mexico - khu vực Trung Mỹ được cho là đã cạn hàng tại thị trường nội địa. Điều này khiến các nhà xuất khẩu của khối không còn hàng để giao về các cảng.
Ngoài 2 tin tích cực trên, thị trường cà phê vẫn đang bị ảnh hưởng bởi USDX trở lại đà tăng từ mối lo giá cả hàng hóa tăng vọt. Việc có thể đẩy nhanh việc tăng lãi xuất của Fed đã khiến dòng vốn đầu cơ rời bỏ chứng khoán và các sàn tiền kỹ thuật số, chảy về lại hàng hóa sau khi Trung Quốc công bố chỉ số PMI tháng 5 cao hơn mức kỳ vọng, góp phần hỗ trợ giá cả hàng hóa và nuôi dưỡng kỳ vọng về sự phục hồi kinh tế của nhà tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế giới.
Giá tiêu được dự báo giảm
Giá tiêu hôm nay tại thị trường trong nước nối dài đà tăng nhẹ ở một số địa phương, giao dịch từ 71.500 – 74.500 đồng/kg.
Cụ thể, giá tiêu hôm nay tại Gia Lai, Đồng Nai: 71.500 đồng/kg, Đắk Nông, Đắk Lắk: 72.500 đồng/kg; Bình Phước: 73.500 đồng/kg và Bà Rịa - Vũng Tàu: 74.500 đồng/kg.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA, tuần trước, giá tiêu giao dịch nội địa và quốc tế của Việt Nam tiếp tục giảm. Cụ thể, giá tiêu đen trong nước giảm 5%, từ 3.250 xuống 3.075 USD/tấn; tiêu trắng nội địa giảm 4%, từ 5.856 xuống 5.667 USD/tấn; giá FOB tiêu đen tại cảng TP Hồ Chí Minh giảm 1%, từ 3.920 xuống 3.870 USD/tấn với loại 500g/l; giá FOB tiêu trắng tại cảng TP Hồ Chí Minh giảm 1%, từ 5.920 xuống 5.870 USD/tấn.
Ở Đông Nam Á, giá tiêu Indonesia giảm từ tuần trước khi các yếu tố thị trường vẫn không ổn định. Một số vùng tại Bangka và Belitung đã bắt đầu thu hoạch.
Cụ thể, tiêu đen nội địa của quốc gia giảm 2%, từ 3.406 xuống 3.348 USD/tấn; tiêu trắng giảm 4%, từ 5.858 xuống 5.603 USD/tấn; giá FOB tiêu đen tại cảng Lampung giảm 2%, từ 4.048 xuống 3.983 USD/tấn; giá FOB tiêu trắng tại cảng Pinang giảm 4%, từ 6.757 xuống 6.473 USD/tấn.
Trong khi đó, giá tiêu đen trong nước và quốc tế của Malaysia tiếp tục ổn định. Cụ thể, giá tiêu đen nội địa từ 4.114 - 4.117 USD/tấn; tiêu trắng nội địa 5.881 - 5.885 USD/tấn; giá FOB tiêu đen tại cảng Kuching 5.900 USD/tấn với loại 500g/l; giá FOB tiêu trắng tại cảng Kuching ở mức 7.600 USD/tấn.
Trong khi đó, giá tiêu thị trường Mỹ và châu Âu giảm nhẹ. Tiêu trắng Muntok ở mức 7.100 CF tháng 6/7.
Sản xuất hồ tiêu Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục gặp bất lợi do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cùng với các nguyên nhân khách quan như sốt giá đất, giá phân, giá thuốc và nhân công tăng. Trong khi đó, quốc gia cung cấp hồ tiêu lớn thứ 2 toàn cầu là Brazil vẫn đang duy trì tốc độ tăng trưởng tốt cả về số lượng và trị giá xuất khẩu.
Bên cạnh đó, sự kiên định của Trung Quốc trong việc thực hiện chính sách "Zero Covid" không chỉ khiến chuỗi cung ứng nội địa đứt gãy mà còn tác động đến giá hồ tiêu Việt Nam trong thời gian tới khi xuất khẩu hồ tiêu sang Trung Quốc dự báo tiếp tục giảm; đồng thời một số lô hàng hồ tiêu đang bị kẹt ở cửa khẩu có thể sẽ bị bán ngược lại Việt Nam để cắt lỗ, gây áp lực lên giá tiêu trong nước.
Ngoài ra, tình trạng tắc nghẽn vận tải biển có thể trở nên trầm trọng hơn sau khi các biện pháp phong tỏa và hạn chế của Trung Quốc được nới lỏng bởi sẽ có sự bùng nổ lượng hàng hóa vận chuyển, từ đó tạo sức ép lớn đối với giá cước giao ngay.
Giá cao su ổn định
Giá cao su ngày hôm nay kỳ hạn trên các sàn châu Á tăng ổn định, neo quanh mức 251 yen/kg.
Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka (OSE), giá cao suhôm nay kỳ hạn tháng 9/2022, tăng mạnh lên mức 254,5 JPY/kg, tăng mạnh 1,5 yên, tương đương 0,59%.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2022 trên sàn Thượng Hải tăng mạnh 80 CNY, ghi nhận 13.100 CNY/tấn, tương đương 0,61%.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng do đồng JPY giảm khiến các hàng hóa tính theo yen trở nên hấp dẫn so với các nhà đầu tư mua bằng các tiền tệ khác, trong khi giá dầu mạnh khuyến khích người sử dụng chuyển từ cao su nhân tạo sang cao su tự nhiên.
Cao su thiên nhiên kỳ hạn giao dịch trên mốc 250 JPY / kg, mức chưa từng thấy trong hơn một tháng qua, trong bối cảnh nhu cầu tăng trở lại sau khi Trung Quốc tuyên bố mở cửa trở lại các trung tâm kinh tế quan trọng khi COVID-19 trường hợp giảm sâu thứ hai thế giới - nền kinh tế lớn nhất.
Tuy nhiên, nguồn cung cao su phục hồi của các nước sản xuất lớn như Thái Lan và Việt Nam nên giữ giá cao su từ tháng này trở đi. Trong khi đó, dự trữ cao su OSE của Nhật Bản tại các kho được chỉ định giảm 94 tấn xuống khoảng 8.030 tấn, trong khi tại Thượng Hải INE giảm 2.742 tấn. Mặt khác, tồn kho tại Shanghai SHFE tăng 2.781 tấn.
Trong quý I, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 13 cho Mỹ với 9 nghìn tấn, tương đương 15 triệu USD, giảm 34% về lượng và giảm 36% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Thị phần cao su Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu cao su của Mỹ chiếm 1,7%, giảm so với mức 3,1% quý I/2021.
Cục xuất nhập khẩu nhận định xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Mỹ chịu cạnh tranh từ nhiều thị trường, đặc biệt là Indonesia (chiếm 29,2% tổng lượng nhập khẩu cao su của Mỹ) và Thái Lan (chiếm 13,2%). Thị phần cao su của Thái Lan và Indonesia đều tăng so với cùng kỳ năm 2021.
Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là cao su tự nhiên. Trong đó, chủng loại SVR3L được xuất khẩu sang Mỹ nhiều nhất, chiếm 41% tổng lượng cao su xuất khẩu sang Mỹ trong 4 tháng đầu năm.
Giá bông giảm
Giá bông kỳ hạn được giao dịch quanh mức 140 USD/ Lbs, giảm hơn 10% so với mức cao nhất trong 11 năm là 158 USD vào đầu tháng 5, do triển vọng nguồn cung cao hơn trong bối cảnh thời tiết thuận lợi ở các khu vực tăng trưởng hàng đầu.
Các thương nhân lưu ý rằng vụ mùa của Hoa Kỳ đã được gieo trồng 54% tính đến ngày 22 tháng 5, đang chạy trước tốc độ trung bình của ngày đó và mang lại hy vọng về năng suất vững chắc. Đồng thời, nhu cầu đối với bông đang suy yếu trong giới dự trữ và thương nhân trong bối cảnh áp lực lạm phát cao.
Trong khi đó, USDA hạ dự báo về nguồn cung bông toàn cầu vào năm 2022/23, do các kho dự trữ ban đầu nhỏ hơn bù đắp cho sản lượng tăng 2,6 triệu kiện, trong khi lượng tiêu thụ và dự trữ cuối kỳ cũng giảm.
Các tính năng của bông có sẵn trên New York Mercantile Exchange và Chicago Mercantile Exchange. Quy mô của mỗi hợp đồng là 50.000 bảng Anh. Các nhà sản xuất bông lớn nhất là Trung Quốc và Ấn Độ, tiếp theo là Hoa Kỳ, Pakistan, Brazil, Australia và Uzbekistan. Hoa Kỳ là nước xuất khẩu bông lớn nhất (40% tổng kim ngạch xuất khẩu). Bông là loại sợi tự nhiên được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới cho quần áo. Giá bông được hiển thị trong Kinh tế giao dịch dựa trên các công cụ tài chính mua bán tự do (OTC) và hợp đồng chênh lệch (CFD).
Tin liên quan
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp