29/09/2024 19:56
Tại sao các cường quốc lớn nhất thế giới không thể ngăn chặn chiến tranh Trung Đông?
Trong gần một năm chiến tranh ở Trung Đông, các cường quốc đã tỏ ra không có khả năng ngăn chặn hoặc thậm chí gây ảnh hưởng đáng kể đến cuộc chiến, một thất bại phản ánh một thế giới hỗn loạn của chính quyền phi tập trung dường như có khả năng tồn tại lâu dài.
Các cuộc đàm phán giữa Israel và Hamas nhằm chấm dứt giao tranh ở Gaza, do Mỹ thúc đẩy, đã nhiều lần được chính quyền Biden mô tả là đang trên đà đột phá nhưng lại thất bại. Nỗ lực hiện nay do phương Tây dẫn đầu nhằm ngăn chặn một cuộc chiến tranh toàn diện giữa Israel và Hezbollah ở Lebanon giống như một cuộc tranh giành nhằm ngăn chặn thảm họa.
Cơ hội thành công của nó dường như vô cùng bấp bênh sau vụ Israel giết chết Hassan Nasrallah, thủ lĩnh lâu năm của Hezbollah hôm 27/9.
Richard Haass, chủ tịch danh dự của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, cho biết: "Có nhiều khả năng hơn trong một thế giới nơi các lực lượng ly tâm mạnh hơn nhiều so với các lực lượng tập trung". "Trung Đông là trường hợp điển hình đầu tiên về sự chia cắt nguy hiểm này".
Vụ sát hại ông Nasrallah, thủ lĩnh của Hezbollah trong hơn ba thập kỷ và là người đã xây dựng tổ chức Shiite thành một trong những lực lượng vũ trang phi nhà nước hùng mạnh nhất thế giới, đã để lại một khoảng trống mà Hezbollah rất có thể sẽ phải mất nhiều thời gian mới có được.
Đó là một đòn giáng mạnh vào Iran, nước ủng hộ chính của Hezbollah, thậm chí có thể gây bất ổn cho Cộng hòa Hồi giáo. Liệu chiến tranh toàn diện có xảy ra với Lebanon hay không vẫn chưa rõ ràng.
Gilles Kepel, chuyên gia hàng đầu của Pháp về Trung Đông và là tác giả cuốn sách về những biến động của thế giới kể từ ngày 7/10, cho biết: "Nasrallah đại diện cho mọi thứ cho Hezbollah, và Hezbollah là cánh tay tiến công của Iran".
"Bây giờ Cộng hòa Hồi giáo đang suy yếu, có lẽ là nghiêm trọng, và người ta tự hỏi ai có thể ra lệnh cho Hezbollah ngày nay."
Trong nhiều năm, Mỹ là quốc gia duy nhất có thể gây áp lực mang tính xây dựng lên cả Israel và các quốc gia Ả Rập. Mỹ thiết kế Hiệp định Trại David năm 1978 mang lại hòa bình giữa Israel và Ai Cập, cũng như hòa bình Israel-Jordan năm 1994.
Chỉ hơn ba thập kỷ trước, Thủ tướng Yitzhak Rabin của Israel và Yasir Arafat, Chủ tịch Tổ chức Giải phóng Palestine, đã bắt tay nhau trên bãi cỏ Nhà Trắng nhân danh hòa bình, chỉ để hy vọng mong manh về cái ôm đó dần dần bị xói mòn.
Thế giới và kẻ thù chính của Israel đã thay đổi kể từ đó. Khả năng của Mỹ trong việc gây ảnh hưởng đến Iran, kẻ thù không đội trời chung trong nhiều thập kỷ, và các lực lượng ủy nhiệm của Iran như Hezbollah, là rất nhỏ. Bị coi là các tổ chức khủng bố ở Washington, Hamas và Hezbollah thực sự tồn tại ngoài tầm với của chính sách ngoại giao Mỹ.
Mỹ có đòn bẩy lâu dài đối với Israel, đặc biệt là dưới hình thức viện trợ quân sự liên quan đến gói trị giá 15 tỷ USD được Tổng thống Biden ký trong năm nay. Nhưng một liên minh sắt đá với Israel được xây dựng dựa trên những cân nhắc chính trị trong nước và chiến lược, cũng như các giá trị chung của hai nền dân chủ, có nghĩa là Washington gần như chắc chắn sẽ không bao giờ đe dọa cắt giảm - chứ chưa nói đến cắt đứt - dòng vũ khí.
Phản ứng áp đảo của quân đội Israel ở Gaza trước vụ thảm sát người Israel của Hamas ngày 7/10 và việc bắt giữ khoảng 250 con tin đã khiến ông Biden bị khiển trách nhẹ nhàng. Chẳng hạn, ông đã gọi hành động của Israel là "quá mức". Nhưng sự hỗ trợ của Mỹ dành cho đồng minh đang bị bao vây của mình là rất kiên quyết khi thương vong của người Palestine ở Gaza đã lên tới hàng chục nghìn người, trong đó có nhiều dân thường.
Mỹ, dưới bất kỳ nhiệm kỳ tổng thống nào có thể tưởng tượng được, sẽ không từ bỏ một nhà nước Do Thái mà sự tồn tại của nó ngày càng bị nghi ngờ trong năm qua, từ các khuôn viên của Mỹ cho đến các đường phố ở chính châu Âu, nơi đã bắt tay vào việc tiêu diệt người Do Thái chưa đầy một phút.
Ông Haass nói: "Nếu chính sách của Mỹ đối với Israel thay đổi, thì điều đó sẽ chỉ ở bên lề", bất chấp sự đồng cảm ngày càng tăng, đặc biệt là trong giới trẻ Mỹ, đối với chính nghĩa của người Palestine.
Các cường quốc khác về cơ bản chỉ là người đứng ngoài khi cuộc đổ máu lan rộng. Trung Quốc, một nước nhập khẩu dầu lớn của Iran và là nước ủng hộ chính cho bất cứ điều gì có thể làm suy yếu trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu nổi lên từ đống đổ nát vào năm 1945, không mấy quan tâm đến việc khoác lên mình chiếc áo của người kiến tạo hòa bình.
Nga cũng ít có xu hướng giúp đỡ, đặc biệt là vào đêm trước cuộc bầu cử ngày 5/11 ở Mỹ. Phụ thuộc vào Iran về công nghệ quốc phòng và máy bay không người lái trong cuộc chiến khó giải quyết ở Ukraina, nước này cũng hào hứng không kém Trung Quốc trước bất kỳ dấu hiệu suy thoái nào của Mỹ hoặc bất kỳ cơ hội nào để đẩy Mỹ sa lầy vào vũng lầy ở Trung Đông.
Dựa trên hành vi trong quá khứ của ông, khả năng trở lại Nhà Trắng của cựu Tổng thống Donald Trump có thể được Moscow coi là sự trở lại của một nhà lãnh đạo sẽ tỏ ra hài lòng với Tổng thống Vladimir Putin.
Trong số các cường quốc trong khu vực, không có cường quốc nào đủ mạnh hoặc đủ cam kết vì chính nghĩa của người Palestine để đối đầu với Israel về mặt quân sự. Cuối cùng, Iran thận trọng vì họ biết cái giá phải trả cho một cuộc chiến tranh tổng lực có thể là sự kết thúc của Cộng hòa Hồi giáo; Ai Cập lo ngại làn sóng tị nạn Palestine khổng lồ; và Ả Rập Saudi tìm kiếm một nhà nước Palestine, nhưng sẽ không đặt mạng sống của người Saudi vào nguy hiểm vì mục tiêu đó.
Về phần Qatar, nước này đã tài trợ cho Hamas hàng trăm triệu USD mỗi năm, một phần để xây dựng một mạng lưới đường hầm như mê cung, có nơi sâu tới 250 feet, nơi các con tin Israel bị giam giữ. Nó nhận được sự đồng lõa của Thủ tướng Benjamin Netanyahu, người coi Hamas là một cách hiệu quả để làm suy yếu Chính quyền Palestine ở Bờ Tây và do đó làm mất đi mọi cơ hội hòa bình.
Thảm họa ngày 7/10 cũng là đỉnh điểm của sự thao túng đầy hoài nghi của các nhà lãnh đạo Ả Rập và Israel đối với nỗ lực trở thành nhà nước của người Palestine. Một năm trôi qua, không ai biết cách nhặt từng mảnh vỡ.
Vì vậy, trong chuyến hành hương hàng năm, hiện đang diễn ra, các nhà lãnh đạo thế giới đổ xô tới cuộc họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc, nơi Hội đồng Bảo an phần lớn bị tê liệt bởi quyền phủ quyết của Nga đối với bất kỳ nghị quyết nào liên quan đến Ukraina và quyền phủ quyết của Mỹ đối với các nghị quyết liên quan đến Israel.
Các nhà lãnh đạo lắng nghe ông Biden mô tả một lần nữa về một thế giới ở "điểm uốn" giữa chế độ chuyên chế đang gia tăng và các nền dân chủ đang gặp khó khăn. Họ nghe thấy tổng thư ký Liên Hợp Quốc, António Guterres, lên án "hình phạt tập thể" đối với người dân Palestine - một cụm từ khiến Israel tức giận - để đáp trả "những hành động khủng bố ghê tởm mà Hamas đã thực hiện gần một năm trước".
Nhưng những lời của ông Guterres, giống như của ông Biden, dường như vang vọng trong khoảng trống chiến lược của một trật tự thế giới theo kiểu gọi món, bị đình trệ giữa sự sụp đổ của sự thống trị của phương Tây và sự trỗi dậy đang chững lại của các lựa chọn thay thế cho nó. Các phương tiện để gây áp lực cùng lúc với Hamas, Hezbollah và Israel - và chính sách ngoại giao hiệu quả sẽ đòi hỏi đòn bẩy đối với cả ba nước này - đều không tồn tại.
Việc tháo gỡ mà không xây dựng lại này đã ngăn cản hành động hiệu quả nhằm ngăn chặn cuộc chiến Israel-Gaza. Không có sự đồng thuận toàn cầu về sự cần thiết của hòa bình hoặc thậm chí là ngừng bắn. Trong quá khứ, chiến tranh ở Trung Đông đã khiến giá dầu tăng cao và thị trường sụt giảm, khiến thế giới phải chú ý. Bây giờ, Itamar Rabinovich, cựu đại sứ Israel tại Mỹ, nói, "thái độ là, 'Được rồi, vậy thôi'".
Không có bất kỳ phản ứng quốc tế mạch lạc và phối hợp nào, ông Netanyahu và Yahya Sinwar, lãnh đạo Hamas và là kẻ chủ mưu vụ tấn công ngày 7/10, sẽ không gặp phải hậu quả nào khi theo đuổi một lộ trình hủy diệt, không rõ điểm cuối nhưng chắc chắn sẽ liên quan đến việc mất nhiều hơn nữa cuộc sống.
Ông Netanyahu đã tránh xa nỗ lực nghiêm túc của Mỹ nhằm bình thường hóa quan hệ với Ả Rập Saudi, có lẽ là quốc gia quan trọng nhất trong thế giới Ả Rập và Hồi giáo, bởi vì cái giá của nó sẽ là một cam kết nghiêm túc nào đó đối với việc thành lập một nhà nước Palestine, chính quyền điều mà ông đã cống hiến cả cuộc đời chính trị của mình để ngăn chặn.
Việc ông Netanyahu quan tâm đến việc kéo dài cuộc chiến để tránh bị khiển trách chính thức về những thất bại của quân đội và tình báo dẫn đến vụ tấn công ngày 7/10 – một thảm họa mà đồng tiền dừng lại trên bàn thủ tướng – đã làm phức tạp thêm mọi nỗ lực ngoại giao.
Nỗ lực của ông ta để tránh phải đối mặt với các cáo buộc cá nhân về gian lận và tham nhũng chống lại ông ta cũng vậy. Ông ấy đang chơi trò chờ đợi, bao gồm việc đề nghị rất ít hoặc không đề nghị gì cho đến ngày 5/11, khi ông Trump, người mà ông coi là đồng minh mạnh mẽ, có thể đắc cử.
Các gia đình Israel gửi con cái của họ tham chiến không biết người chỉ huy của họ cam kết như thế nào trong việc đưa những người lính trẻ đó về nhà an toàn bằng cách nắm bắt mọi cơ hội khả thi cho hòa bình. Nhiều người Israel cho rằng điều này đang ăn mòn tâm hồn dân tộc.
Về phần ông Sinwar, những con tin Israel mà ông nắm giữ mang lại lợi thế cho ông. Sự thờ ơ rõ ràng của ông đối với sự mất mát to lớn về sinh mạng của người Palestine ở Gaza đã giúp ông có ảnh hưởng đáng kể đến dư luận thế giới, vốn đang dần quay lưng lại với Israel khi ngày càng có nhiều trẻ em Palestine bị giết.
Nói tóm lại, ông Sinwar có rất ít lý do để thay đổi hướng đi; và theo điều mà Stephen Heintz, chủ tịch tổ chức từ thiện Quỹ Anh em Rockefeller gọi là "thời kỳ hỗn loạn", thế giới sẽ không thay đổi hướng đi đó vì ông.
Ông Heintz viết trong một bài luận gần đây: "Các thể chế đã định hướng quan hệ quốc tế và giải quyết các vấn đề toàn cầu kể từ giữa thế kỷ 20 rõ ràng không còn đủ khả năng giải quyết các vấn đề của thiên niên kỷ mới". "Chúng không hiệu quả và trong một số trường hợp đơn giản là đã lỗi thời".
Đó cũng là bài học của năm kể từ khi Hamas tấn công.
(Nguồn: The New York Times)
Tin liên quan
Chủ đề liên quan
Advertisement