31/10/2022 09:54
Kinh tế Mỹ liệu có đi theo 'vết xe đổ' của Vương quốc Anh?
Thủ tướng Liz Truss đã từ chức trong 45 ngày, như nhiều người đã dự đoán trước khi bà nhậm chức vào tháng trước. Rishi Sunak, Thủ tướng đương nhiệm (Thủ tướng thứ ba của Anh trong hai tháng), đã chỉ trích nặng nề kế hoạch tài chính khoa trương nhưng ngu ngốc của Truss trong chiến dịch tranh cử mùa hè để thay thế Boris Johnson.
Trong khi bà Truss thành công trong việc thu hút những người cực hữu Tories bằng luận điệu chống người nhập cư và ủng hộ Brexit của mình, các chính sách kinh tế không phù hợp của bà đã không thể thu hút được thị trường tài chính.
Và chỉ trong vài tuần, khi Vương quốc Anh bình thường trở lại sau đau buồn với vị Nữ hoàng trị vì lâu nhất của mình, việc cắt giảm thuế và kế hoạch vay mượn của Truss đã tàn phá nền kinh tế. Đồng bảng Anh xuống mức thấp kỷ lục, lãi suất thế chấp tăng vọt lên mức ngất ngưởng, buộc Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) phải can thiệp để xoa dịu thị trường và bảo vệ các quỹ hưu trí dễ bị tổn thương khỏi sự sụp đổ.
Phải thừa nhận rằng Mỹ đang chứng kiến sự ổn định chính trị tương đối - ít nhất là so với nhiệm kỳ của Trump. Nền kinh tế Mỹ đang tiến tới một cuộc suy thoái từng phần. Tuy nhiên, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) không có dấu hiệu hoảng sợ hoặc mất kiểm soát. Và các nhà đầu tư đang dần lấy lại niềm tin vào chính phủ Mỹ, không giống như sự lo lắng đang lan rộng khắp thế giới. Tuy nhiên, có một vài điểm tương đồng giữa Anh và Mỹ.
Để tóm tắt và phân tích sâu, trước tiên chúng ta nên tự hỏi: Tại sao kế hoạch kinh tế của Anh lại phản tác dụng? Thực tế, Anh là một trong những nền kinh tế công nghiệp hóa quan trọng nhất của phương Tây - lớn thứ 6 trên thế giới. Tuy nhiên, quốc gia này bị Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) khiển trách về sự thiếu thận trọng về tài khóa, một sự hiếm hoi.
Những nhận xét như vậy thường dành cho các nền kinh tế mới nổi với tai tiếng về sự thiếu trách nhiệm tài khóa. Đó không phải là do khoản cắt giảm thuế chưa hoàn lại 45 tỷ bảng - gói thuế lớn nhất của Anh trong hơn 5 thập kỷ. Nhưng đó là phản ứng trước sự mâu thuẫn được phác thảo bởi chế độ Truss giữa chính sách tiền tệ bảo thủ của Anh và các chiến lược tài khóa gần như tự do.
IMF bất ngờ nhận ra rằng cuộc xung đột này sẽ chỉ làm trầm trọng thêm tình trạng bất ổn kinh tế vốn đã xuất hiện sau cuộc chiến Ukraina của Nga.
Trong thời kỳ mà thế giới phương Tây cùng với BoE thắt chặt chính sách để chống chọi với lạm phát do năng lượng gây ra, chính phủ Anh đã lập một kế hoạch - không có bất kỳ đánh giá độc lập nào về tác động tài khóa tiềm ẩn - vay vốn để tài trợ cho việc cắt giảm thuế không tưởng và loại bỏ các giới hạn về ưu đãi của ngân hàng.
Trong khoảng thời gian mà tầng lớp lao động chứng kiến các hóa đơn năng lượng tăng vọt, chính phủ Truss đã lên kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua kinh tế nhỏ giọt ban đầu mà không có bất kỳ chương trình nghị sự thực chất nào để mời gọi đầu tư nước ngoài.
Đương nhiên, các thị trường tài chính nổi dậy bằng cách bán phá giá các khoản nợ của Vương quốc Anh khiến lãi suất tăng theo vòng xoáy; các khoản thế chấp tăng vọt; bảng Anh giảm xuống gần như ngang bằng với USD. Bà Truss ngay lập tức đảo ngược hầu hết các chính sách của mình trước khi bà rời văn phòng, đồng thời báo trước về việc cắt giảm chi tiêu đau đớn sắp xảy ra.
Tuy nhiên, các thị trường phủ bóng đen thông báo của Thủ tướng tiếp theo của Vương quốc Anh với phản ứng không rõ ràng khi đồng bảng Anh giảm 0,17% so với đồng bạc xanh - xóa đi mức tăng trước đó - trong khi trái phiếu tăng lên mức trước khi ông nhậm chức.
Rất may, Mỹ thậm chí không ở trong cùng một lĩnh vực. Nhưng sự bất ổn chính trị cũng đang gia tăng trong Quốc hội nước này.
Chính quyền Biden đã phần nào khôi phục lại sự ổn định đã mất đối với chính trường Mỹ. Xu hướng Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại (MAGA) đã giảm dần nếu không muốn nói là hoàn toàn hiệu quả. Và Hoa Kỳ dường như đang trở lại sự cân bằng cổ điển về ngoại giao và răn đe vốn đã bị mất đáng kể kể từ năm 2017.
Đảng Dân chủ đang đối mặt với sự mỏng manh ở cả hai viện. Triển vọng bầu cử giữa kỳ của họ dần được cải thiện với thành công chung ở châu Âu trước Nga. Những sai lầm của Đảng Cộng hòa như sự đảo ngược của Roe và Wade càng ủng hộ ông Biden.
Tuy nhiên, sự thiển cận của giới hạn giá dầu Nga của Nhóm G7 và lực lượng của Trung Quốc đang triển khai ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương đã khiến những người yêu nước Mỹ vỡ mộng. Sự thông đồng táo bạo của Iran với Nga trong việc cung cấp máy bay không người lái quân sự ở Ukraina đã làm suy yếu thêm ảo tưởng sức mạnh của Mỹ.
Cú tát vào mặt gần đây là sự phản bội của Ả Rập Xê-út khiến OPEC + cắt giảm nguồn cung dầu toàn cầu 2 triệu thùng/ngày, ngay cả sau khi ông Biden đấm tay với thái tử Mohammad Bin Salman (MBS) trong chuyến thăm Ả Rập Xê-út vào tháng 7.
Khi giá xăng tăng trong vài tuần gần đây và lạm phát ngày càng chứng tỏ mức độ đáng lo ngại, đảng Dân chủ có thể mất cả hai viện - hoặc ít nhất là Thượng viện - điều này có thể gây ra tình trạng giống như ở Anh. Mức trần nợ của Hoa Kỳ gây tranh cãi sẽ được kích hoạt.
Theo ước tính của IMF, Mỹ và Anh là hai trong số các nền kinh tế công nghiệp hóa cao nhất đang thâm hụt ngân sách và tài khoản vãng lai lớn nhất. Theo dữ liệu từ cơ sở dữ liệu Triển vọng Kinh tế Thế giới (WEO) của IMF, thâm hụt tài khoản vãng lai của Anh năm nay sẽ vào khoảng 4,8% GDP; 3,9% đối với Mỹ.
Cả hai quốc gia đã vay hơn 4% GDP tương ứng của họ để tài trợ cho những khoảng cách này. Những khoản thâm hụt khổng lồ như vậy cho thấy nhu cầu liên tục đối với dòng vốn. Các nền kinh tế tiên tiến như Nhật Bản và Pháp cũng có thâm hụt chính phủ rất lớn. Nhưng không có thành viên nào của G7 có thâm hụt tài khoản vãng lai của họ giống như Anh và Mỹ.
Và chuyên gia hoàn toàn đồng ý rằng kho bạc Hoa Kỳ hiện đang chạy ngược lại quỹ đạo của Vương quốc Anh, một cuộc khủng hoảng có thể xảy ra với nền kinh tế Mỹ nếu đảng Cộng hòa giành được quyền kiểm soát một trong hai viện của Quốc hội và thực thi giới hạn nợ đối với khoản vay của chính phủ.
Mặc dù về mặt lý thuyết, nó có thể đẩy chính phủ Mỹ vỡ nợ và đẩy nền kinh tế toàn cầu vào hỗn loạn, nhưng kết quả có nhiều khả năng hơn là một sự thỏa hiệp dưới hình thức cắt giảm chi tiêu - một sự lặp lại của Obama trước sức ép của đảng Cộng hòa vào năm 2013 với hy vọng một thỏa thuận giảm thâm hụt dài hạn.
Tuy nhiên, cuộc tranh chấp chính trị sắp xảy ra này có thể khiến thị trường trái phiếu vốn đang rất sốt, do lịch trình thắt chặt mạnh mẽ của Fed gây ra. Hãy nhớ rằng, sự nghi ngờ của các nhà đầu tư đối với kế hoạch tài chính của chính phủ Anh đã gây ra tình trạng suy thoái thị trường hiện tại, chứ không phải bất kỳ dấu hiệu thực tế nào cho thấy sắp xảy ra vỡ nợ.
Nó cho thấy rằng trong môi trường thị trường nhạy cảm ngày nay, sự hoài nghi của thị trường dần dần trở thành cơn ác mộng kinh tế ghê gớm - ngay cả đối với một nền kinh tế tiên tiến.
Một rủi ro khác là giá trị hối đoái của đồng USD. Chỉ riêng trong năm nay, đồng bạc xanh đã tăng hơn 18% so với rổ tiền tệ chủ chốt, theo Chỉ số USD chuẩn ICE. Các đợt tăng lãi suất ngày càng nhanh của Fed đã đẩy đồng USD lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ - thậm chí so với tiền tệ của các đối tác thương mại lớn của nó.
Do đó, xuất khẩu của Hoa Kỳ có xu hướng giảm trong khi nhập khẩu tăng, làm gia tăng thâm hụt tài khoản vãng lai. Vì, hàng xuất khẩu của Mỹ trở nên đắt đỏ, trong khi nhập khẩu rẻ hơn. Các chuyên gia lo sợ việc bán tháo trên thị trường kho bạc Hoa Kỳ có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài như cuộc Đại suy thoái năm 2008.
May mắn thay, chứng khoán Hoa Kỳ là yếu tố chính cho các nhà đầu tư không thích rủi ro đang tìm kiếm một thiên đường kinh tế. Và hầu như mọi giao dịch lớn trên toàn cầu - từ thị trường dầu mỏ đến hàng hóa - đều được thanh toán bằng đồng USD. Do đó, thị trường Hoa Kỳ ổn định hơn nhiều so với các thị trường khác như Anh.
Cuối cùng, sự hiện diện kinh tế ở khắp mọi nơi của Mỹ thực sự đặt ra một số thách thức. Nỗi đau kinh tế xuất khẩu trên toàn cầu của Mỹ do đồng USD giảm giá có thể dẫn đến tình trạng hỗn loạn tài chính ở một trong những đối tác thương mại lớn của nước này.
Nhật Bản là một ví dụ hoàn hảo. Các đợt tăng lãi suất của Fed đã khiến đồng yên Nhật giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong 32 năm so với USD. Tuy nhiên, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) vẫn kiên trì giữ lãi suất ở mức thấp, mặc dù điều này khiến lạm phát tăng lên.
Tuy nhiên, sự e ngại nằm ở nhận thức về lạm phát. Lạm phát 3% của Nhật Bản không phải do nhu cầu mà do nhập khẩu từ nước ngoài, do giá nhiên liệu và lương thực tăng cao. Lịch sử gần đây cho thấy rằng Nhật Bản sẽ không sử dụng đến việc tăng lãi suất, điều này sẽ chèn ép các doanh nghiệp địa phương và làm giảm tình cảm của công chúng mà không thực sự làm giảm lạm phát.
Tuy nhiên, Nhật Bản có thể ngừng mua hoặc thậm chí thanh lý một phần lượng nắm giữ trái phiếu kho bạc Mỹ với tổng trị giá khoảng 1.230 tỷ USD để trả khoản nợ khoảng gấp 260% GDP - mà không cắt giảm chi tiêu công. Kịch bản này chỉ là một ví dụ trong số nhiều trường hợp có thể gây ra khủng hoảng.
Thực tế đáng sợ là không giống như sự suy yếu tài chính của Anh, một đợt hoảng loạn trên thị trường vốn của Mỹ sẽ tàn phá nền kinh tế toàn cầu. Và do đó, sai lầm tài chính của Anh nên là một điềm báo cho các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ để giải quyết thâm hụt ngân sách kinh niên và tài khoản vãng lai, đồng thời giảm thiểu các khoản vay bị cấm trước khi quá muộn để khắc phục.
(Nguồn: Modern Diplomacy)
Tin liên quan
Chủ đề liên quan
Advertisement