28/03/2023 07:43
Sự sụp đổ của ngân hàng chỉ là khởi đầu, các doanh nghiệp mắc nợ sẽ là nạn nhân tiếp theo?
Thị trường tài chính gặp cú "sốc" nặng khi 2 ngân hàng ở Mỹ - Silicon Valley (SVB) và Signature - phải ngừng hoạt động, sau đó đến lượt ngân hàng Credit Suisse (Thụy Sĩ) lao đao.
Tình hình có thể càng nghiêm trọng khi tác động của việc tăng lãi suất đối với các công ty, tập đoàn chuẩn bị hiển hiện. Trước đó, hôm 23/3, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thông báo tăng lãi suất tham chiếu thêm 0,25 %.
Nhà báo kỳ cựu kinh tế và tài chính châu Á Anthony Rowley viết trên tờ South China Morning Post (SCMP) cảnh báo sự sụp đổ của các ngân hàng ở Mỹ gần đây chỉ là sự khởi đầu và các doanh nghiệp mắc nợ sẽ là nạn nhân tiếp theo.
Đây là một rủi ro đặc biệt ở châu Á nơi mà mức vay của các công ty và trong một số trường hợp là hộ gia đình đã tăng vọt trong những năm gần đây để tương đương hoặc thậm chí vượt qua nợ của chính phủ.
Năm ngoái, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3, một tổ chức giám sát kinh tế vĩ mô, đã lưu ý rằng sự gia tăng nợ doanh nghiệp phi tài chính ở các thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cũng như Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông), Nhật Bản và Hàn Quốc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cuộc khủng hoảng tài chính "đã làm gia tăng rủi ro đối với sự ổn định tài chính mà sau đó đã trở nên trầm trọng hơn do đại dịch COVID-19". Và đó là trước khi lạm phát xuất hiện.
Khoản nợ của các công ty phi tài chính toàn cầu là 88.000 tỳ USD vào cuối năm 2021, lần đầu tiên vượt quá giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, nguyên nhân là do lãi suất tăng, tuy đã giảm nhẹ vào năm 2022 nhưng kể từ đó mọi thứ trở nên tồi tệ hơn khi liên quan đến việc giải quyết gánh nặng nợ nần.
Điều này là do lãi suất đã tăng trong năm qua từ mức gần bằng không (và đôi khi thậm chí là âm) mà chúng đã giảm xuống sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 do các ngân hàng trung ương tuyệt vọng ngăn chặn Đại suy thoái lặp lại, theo SCMP.
Như IMF đã lưu ý vào năm 2021, "Các điều kiện tài chính dễ dàng sau cuộc Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 là động lực chính dẫn đến sự gia tăng đòn bẩy ở cả các nền kinh tế thị trường tiên tiến và mới nổi".
Kể từ tháng 3/2022, Fed đã tăng lãi suất cho vay qua đêm chuẩn, hiện ở mức từ 4,75 đến 5%. Nhiều ngân hàng trung ương ở cả các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi, nơi các hành động được quyết định một cách hiệu quả bởi chính sách của Fed cũng đã làm theo bằng cách tăng lãi suất.
Như nhà phân tích tài chính kỳ cựu Jesper Koll nhận định: "Lãi suất tăng sẽ kéo theo những điều tồi tệ…".
Chi phí dịch vụ nợ tăng đối với các hộ gia đình, người đi vay doanh nghiệp và chính phủ. Khi đó, những người trả tiền thế chấp có thể mất nhà cửa và doanh nghiệp của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đối mặt với nguy cơ phá sản.
Làm thế nào mà các giám đốc điều hành công ty và các nhà phân tích thị trường dường như không lường trước được những hậu quả hoàn toàn có thể dự đoán được của những diễn biến như vậy? Có vẻ như là do họ đã không tồn tại đủ lâu để so sánh các sự kiện hiện tại với kinh nghiệm trong quá khứ. Họ không thể nhìn thấy những gì đang đến.
Nigel Green, người đứng đầu bộ phận quản lý tài sản deVere, nhận xét rằng các nhà đầu tư ngày càng tin rằng các chính sách tiền tệ nới lỏng hơn đang được triển khai và kết quả là họ "muốn xây dựng danh mục đầu tư của mình bằng dòng tiền mới".
Nếu điều này là đúng và có lẽ nó được đưa ra trong hồ sơ gần đây về sự đánh giá kém của nhà đầu tư thì nó chỉ cho thấy hậu quả của việc các ngân hàng trung ương và các chính trị gia từ chối mức độ trong hiện tại để đảm bảo sức khỏe tài chính trong tương lai còn ít được hiểu biết đến mức nào.
Sau sự sụp đổ của bong bóng chứng khoán dot-com vào năm 2000, Chủ tịch Fed khi đó là ông Alan Greenspan đã nghiêng về việc nới lỏng chính sách tiền tệ.
Hệ thống tài chính dư thừa sau đó đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, sau đó là nới lỏng tiền tệ nhiều hơn. Sự sụp đổ của hệ thống tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã được ngăn chặn nhưng vũ khí được lựa chọn để đạt được điều này, một thập kỷ lãi suất thấp lịch sử đã tạo ra lạm phát giá tài sản khổng lồ.
Việc nó không gây ra lạm phát giá tiêu dùng cao là do các ngân hàng chọn giữ "tiền dễ dàng" trong tài khoản vãng lai của họ tại các ngân hàng trung ương hơn là cho vay.
Tuy nhiên, bức tranh lạm phát đã thay đổi khi các chính phủ tung ra những khoản hỗ trợ khổng lồ trong đại dịch COVID-19. Đợt tăng giá cả tiêu dùng sau đó khiến các ngân hàng trung ương hoảng sợ và tăng mạnh lãi suất một cách đột ngột, dẫn đến nguy cơ suy thoái kinh tế và cuộc khủng hoảng ngân hàng mới đây.
Tiếp theo (có thể dự đoán trước) là suy thoái kinh tế, giá tài sản có thu nhập cố định giảm, một cuộc khủng hoảng ngân hàng mới và suy đoán rằng các ngân hàng trung ương sẽ cần phải tạm dừng tăng lãi suất ngay cả trước khi "con rồng của lạm phát" bị tiêu diệt.
Mặt khác, khủng hoảng nợ của khu vực doanh nghiệp và có thể là khủng hoảng thanh toán thế chấp vẫn chưa giảm. Thật khó để dự đoán tất cả những điều này sẽ kết thúc ở đâu.
Nhưng các cường quốc có thể quá bận đối đầu với nhau trong các cuộc chiến thương mại và công nghệ, và thậm chí với nguy cơ xảy ra xung đột, mà không chú ý cho đến khi một cuộc siêu suy thoái bắt đầu. Hệ thống tài chính có thể phải tự thanh lọc trước khi các nhà hoạch định chính sách thực sự coi trọng các mối đe dọa mà khuôn mặt hệ thống.
Tin liên quan
Advertisement
Advertisement