22/04/2019 22:06
Đại tướng Lê Đức Anh: Nhà cầm quân xuất sắc, luôn trở về trong chiến thắng
Đại tướng Lê Đức Anh, người đã cùng viết nên bài học vẻ vang của lịch sử dân tộc vào ngày giải phóng 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập.
Nhắc đến Đại tướng Lê Đức Anh - Nguyên Chủ tịch nước, Nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là nhắc tới một vị tướng trận mạc mà cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn chặt với nhiều mốc son lịch sử dân tộc. Đánh giá về Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười từng nhận định: “Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”.
Đại tướng Lê Đức Anh không chỉ là chứng nhân mà còn là một yếu nhân đã tham gia vào các sự kiện quan trọng của cách mạng và đất nước trong hơn 50 năm của nửa cuối thế kỷ 20 và hai thập niên đầu của thế kỷ 21.
Ông đã in dấu ấn sâu sắc vào nhiều sự kiện trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Chống Mỹ cứu nước, vào cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, làm nghĩa vụ quốc tế vẻ vang ở Campuchia, vào công cuộc đổi mới đất nước cũng như tham gia hoạch định nhiều chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta cả về đối nội và đối ngoại.
Đại tướng Lê Đức Anh. |
Công lao to lớn của ông được ghi nhận bằng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao quí nhất, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công và Quân công, Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cùng nhiều phần thưởng cao quý khác của Đảng, Nhà nước ta và của các nước.
Tuổi thơ của Đại tướng Lê Đức Anh
Trong tập Hồi ký "Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng" của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng tặng cho hệ thống thư viện trong quân đội, đã ghi chép lại chi tiết thời niên thiếu của ông.
Đại tướng Lê Đức Anh sinh ngày 1/12/1920 trong một ngôi nhà tranh tại gia đình ông bà nuôi ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Quê gốc ở xứ Truồi, làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc. Tên ba mẹ đặt là Lê Văn Giác.
Năm đầu tiên đi học, mắt kém, lại tên là Giác, vần G thì phải ngồi ở phía sau nên thầy giáo nói với ba mẹ ông đổi tên sang vần A để được lên phía trên, nhìn bảng cho rõ hơn. Ba mẹ ông đồng ý với thầy đổi tên Giác thành tên Anh. Và từ đó ông mang tên Lê Đức Anh.
Gia đình ông nhiều đời làm ruộng. Ông nội là Lê Thảng, sinh ngày 6/11/1861, mất ngày 11/5/1939. Ông là một sĩ phu từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Bà nội là Cung Thị Quyến, ngày tháng năm sinh gia đình không nhớ, chỉ nhớ là bà mất ngày 18/9.
Ông bà sinh được 6 người con (2 trai, 4 gái). Bố ông là con trai cả, tên khai sinh là Lê Quang Túy, sinh ngày 25/11/1885, dân làng thường gọi là "Thầy khó Túy". Mất ngày 23/6/1969. Khi đó ông đang cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 9 chỉ huy đánh địch trên chiến trường miền Tây Nam bộ.
Mẹ ông là Lê Thị Thoa, sinh năm 1886, mất ngày 16/11/1967. Khi đó tôi đang cùng Bộ Chỉ huy Miền khẩn trương chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Ông bà nội, ông bà ngoại và ba mẹ ông đều ở xứ Truồi, làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc. Phú Lộc là huyện cửa ngõ phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách thành phố Huế 39km.
Bà cô của ba ông là Lê Thị Kiêm lấy chồng ở làng Trường Hà, xã Vĩnh Phú, huyện Phú Vang. Chồng bà là ông Lý Quang Cản làm thầy thuốc và dạy chữ Nho. Ông bà sống hiền lành, chân chất nhưng không có con. Theo sự sắp xếp của gia đình, bố ông sang làm con nuôi của ông bà. Ông bà nuôi truyền nghề làm thuốc Đông y cho bố ông và cho bố ông học chữ Nho rồi cưới vợ cho.
Bố mẹ ông sinh được 13 người con, 4 người chết lúc nhỏ, còn 9 người. Anh chị em của ông đều sinh ra ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang.
Gắn bó với cách mạng
Đại tướng Lê Đức Anh có cuộc đời hoạt động cách mạng đa dạng, phong phú, đứng ở nhiều vị trí đương đầu với khó khăn, thử thách khắc nghiệt trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.
Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 5 năm 1938, hoạt động trong phong trào công nhân cao su ở Lộc Ninh, Phú Riềng và các tỉnh Nam Bộ cho đến Cách mạng Tháng 8/1945.
Từ tháng 8/1945, ông tham gia quân đội, giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến chính trị viên Tiểu đoàn.
Từ năm 1948 đến năm 1954, ông đã kinh qua nhiều chức vụ như Tham mưu trưởng các Quân khu 7, 8 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và từ năm 1955 đến năm 1963, ông là Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam Lê Đức Anh tại Bộ Tư lệnh miền - khu căn cứ Tà Thiết, năm 1966. |
Từ tháng 2/1964 đến năm 1975, ông trở lại Miền Nam chiến đấu trên cương vị Phó Tư lệnh Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh Cánh quân Tây Nam.
Từ tháng 5/1976 đến năm 1986, ông được giao nhiều trọng trách lớn như Tư lệnh Quân khu 9, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, Trưởng đoàn Chuyên gia Việt Nam ở Campuchia.
Năm 1986, ông là Tổng Tham mưu trưởng và là Bộ trưởng Quốc phòng từ năm 1987 đến năm 1991. Ông được bầu làm Chủ tịch nước từ năm 1992 đến năm 1997.
Tham gia Quân đội, ông được phong quân hàm Đại tá năm 1958, phong vượt cấp lên Trung tướng năm 1974. Năm 1980 là Thượng tướng và năm 1984 là Đại tướng. Ông tham gia Ban Chấp hành Trung ương nhiều khóa, là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị và là cố vấn của Trung ương Đảng từ năm 1997 đến năm 2001.
Sau khi nghỉ công tác, ông vẫn nghiên cứu và đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, có tầm chiến lược đối với Đảng và Nhà nước ta. Ngoài những đóng góp to lớn cho cách mạng và đất nước, có thể coi ông là một trong những kiến trúc sư, tham gia quan trọng vào tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và Việt Nam - Trung Quốc.
Vị tướng chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh
Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ tư lệnh chiến dịch ngày ấy gồm 8 người, nay chỉ còn lại đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, lúc đó ông là Trung tướng, Phó Tư lệnh. Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tư lệnh chiến dịch), Chính ủy Phạm Hùng, các Phó Tư lệnh gồm: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Đinh Đức Thiện; Phó Chính ủy là Trung tướng Lê Quang Hòa và quyền Tham mưu trưởng là Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền đều đã mất.
Lực lượng trực tiếp tham gia chiến dịch của ta gồm 5 quân đoàn có trên dưới 15 sư đoàn. Các quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 có đủ các binh chủng hợp thành, cùng các lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ và lực lượng nổi dậy của quần chúng ở nông thôn cũng như thành thị.
Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh xác định phải đánh nhanh, quyết liệt, không cho địch co cụm về Sài Gòn; ngược lại, không để cho quân địch ở Sài Gòn chạy về miền Tây. Các cánh quân phải tổ chức các mũi thọc sâu, mũi đánh vòng ngoài kết hợp giữa chủ lực với bộ đội địa phương và kết hợp giữa bộ đội với quần chúng nhân dân, đột phá liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng Lê Đức Anh còn được giao đảm trách chỉ huy và lãnh đạo cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn (đoàn 232), một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Thời điểm đó, Bộ Chỉ huy Miền (B2) nhận định hướng Tây - Tây Nam là nơi khó nhất vì sình lầy, nhưng đây là một hướng tiến công rất quan trọng vì nhất định ta phải nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4 để quân địch ở Sài Gòn không thể co cụm xuống cố thủ ở Tây Đô (Cần Thơ).
Đoàn 232 gồm các sư đoàn 3, 5 và 9; bốn trung đoàn độc lập, một trung đoàn đặc công có 3 nhiệm vụ: chia cắt hai lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng ở đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và tấn công Tổng nha cảnh sát, sau đó hợp điểm tại Dinh Độc Lập.
Đúng 17h ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các đơn vị hướng Tây - Tây Nam tiến công. Sư đoàn 5 cắt đoạn Bến Lức tới Tân An. Sư đoàn 8 cắt lộ 4 từ Mỹ Tho tới bờ sông Tiền. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh - Lộc Giang, vượt sông Vàm Cỏ. Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ tập kết tại Cầu Bông, Mỹ Thạnh, Đức Hòa.
Ngày 30/4, cánh quân hướng Tây - Tây Nam đã đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia, Tổng nha cảnh sát, cảnh sát đô thành, các quận Tân Bình, Bình Chánh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.
Đúng 11h30 ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, từ nay đất nước thống nhất, non sông liền một dải.
Luôn trở về trong chiến thắng
Thượng tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an trao tặng Cuốn thư ghi nhận công lao, đóng góp cho nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. |
Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là một tướng trận. Ông là một trong số ít người đã trải qua các cuộc chiến tranh và xung đột từ năm 1945 - 1989. Ông có mặt ở những điểm nóng nhất và trở về trong chiến thắng: tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, đi chiến trường miền Nam 11 năm (1964 - 1975), chỉ huy chiến trường Campuchia 7 năm (1979 - 1986), ổn định tình hình biên giới phía Bắc (1986 - 1989).
Ông trực tiếp tham gia những trận đánh, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh: Mậu Thân 1968, chống lấn chiếm 1973, Phước Long 1974, chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch giải phóng Campuchia; chấm dứt xung đột biên giới với Trung Quốc; bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc: Ngày 6/11/1987 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa; ngày 29/3/1989 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, bãi đá ngầm (khu DK1).
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp