12/05/2023 08:17
Thị trường nông sản 12/5: Giá cà phê tăng, cao su, tiêu quay đầu giảm
Thị trường nông sản hôm nay ghi nhận giá cà phê tăng nhẹ, trong khi đó giá hồ tiêu cao su quay đầu giảm tại các vùng trồng nguyên liệu trọng điểm.
Giá cà phê hôm nay
Giá cà phê trong nước hôm nay 12/5 tăng mạnh so với hôm qua, tăng 600 đồng/kg, hiện dao động từ 53.800 – 54.400 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê tại tỉnh Lâm Đồng tăng 600 đồng/kg, với giá từ 53.700 – 53.800 đồng/kg, Gia Lai, tỉnh Kon Tum ở mức giá 54.300 đồng/kg, Đắk Nông: 54.400 đồng/kg, Đắk Lắk: 54.300 đồng/kg.
Đối với giá cà phê thế giới, giá cà phê trên hai sàn đang cùng xu hướng giảm. Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta trên sàn London kỳ hạn giao tháng 7 giảm 32 USD, còn 2.449 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 32 USD, còn 2.428 USD/tấn, các mức giảm mạnh. Khối lượng giao dịch dưới mức trung bình.
Cùng xu hướng, giá cà phê Arabica trên sàn New York tiếp tục sụt giảm. Kỳ hạn giao tháng 7 giảm thêm 2,80 cent, xuống 183,15 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm thêm 2,85 cent, còn 180,85 cent/lb, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.
Số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong tháng 4 chỉ đạt 163.607 tấn, giảm 22,23% so với tháng trước, đưa xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm lên đạt tổng cộng 716.580 tấn (khoảng 11,94 triệu bao), giảm 5,53% so với cùng kỳ năm trước.
Điều này đã khiến thị trường tiếp tục đứng trước khả năng thiếu hụt nguồn cung Robusta trong ngắn hạn. Hiện tại, giá cà phê trong nước và quốc tế đang ở mức cao so với nhiều năm trở lại đây, tạo cơ hội để Việt Nam có thể duy trì mức kim ngạch xuất khẩu cà phê trên 4 tỷ USD, kỷ lục được thiết lập vào năm 2022.
Bên cạnh đó, theo Sở Giao dịch hàng hoá Việt Nam (MXV), trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA đều có những nội dung quan trọng về mở cửa thị trường, đặc biệt là thị trường nông sản. Đây là đòn bẩy giúp Việt Nam đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản, hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế lớn thế giới.
Yêu cầu đặt ra là phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, rào cản kỹ thuật cũng như hệ thống vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật khắt khe đã được cam kết trong các Hiệp định.
Nhìn một cách tích cực, đây là động lực để ngành nông sản Việt Nam có những thay đổi, cải tiến để theo kịp xu thế chung của các thị trường xuất khẩu lớn. Nếu làm tốt trong giai đoạn này, sẽ tạo tiền đề để duy trì vị thế xuất khẩu của Việt Nam, không chỉ về sản lượng, mà còn về chất lượng và quy mô của ngành.
Đây là một nhân tố quan trọng có thể thúc đẩy sự phát triển thị trường nông sản Việt Nam theo hướng bền vững hơn, mở được nhiều cánh cửa thị trường khó tính như Nhật, Mỹ, EU... Tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Giá tiêu quay đầu giảm
Giá tiêu hôm nay 12/5 bất ngờ quay đầu giảm sau 3 phiên tăng liên tiếp. Giá tiêu trong nước hiện dao động quanh mốc 73.000 – 76.500 đồng/kg.
Theo đó, tại khu vực Tây Nguyên, giá tiêu hôm nay dao động quanh mức 73.000 – 75.000 đồng/kg. Cụ thể, tại Gia Lai, giá tiêu hôm nay được thương lái thu mua ở mức 74.000 đồng/kg, giảm 1.000 đồng/kg. Tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, giá tiêu hôm nay duy trì ổn định quanh mức 75.000 đồng//kg.
Tương tự, tại Đông Nam bộ, giá tiêu hôm nay cũng điều chỉnh giảm với mức giảm 500 đồng/kg. Hiện giá tiêu hôm nay tại Bà Rịa Vũng Tàu đang được thương lái thu mua ở mức 76.500 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg. Tại Đồng Nai và Bình Phước, giá tiêu cũng giảm 500 đồng/kg xuống còn 76.000 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới, kết thúc phiên giao dịch gần nhất, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết mức tăng với tiêu Indonesia. Theo đó, giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 3.566 USD/tấn, tăng 0,06%; Giá tiêu trắng Muntok 6.046 USD/tấn, tăng 0,08%.
Với các quốc gia còn lại, giá tiêu đi ngang. Cụ thể, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 2.950 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.000 USD/tấn. Từ đầu tuần, IPC liên tục điều chỉnh giá tiêu xuất khẩu tại Indonesia.
Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) cho biết, những tác động của sự suy thoái kinh tế lên nhu cầu của thị trường hồ tiêu chính là yếu tố đáng lo nhất trong thời điểm hiện tại.
Theo đó, tình hình suy thoái kinh tế có thể khiến người tiêu dùng trên thế giới thắt chặt chi tiêu, giảm ăn uống tại các hàng quán từ đó khiến cho lượng tiêu thụ tiêu cũng sẽ giảm theo.
Tuy nhiên, VPSA cho rằng về dài hạn, giá tiêu vẫn có thể tăng. Thông thường, chu kỳ biến động của giá tiêu sẽ mất khoảng 7 - 10 năm. Trong đó, chu kỳ giảm giá của cây tiêu Việt Nam bắt đầu từ năm 2016 đến nay đã là 7 năm và sẽ sớm có sự điều chỉnh lên trở lại.
Giá cao su hôm nay
Giá cao su kỳ hạn giảm với biên độ hơn 2% trong phiên sáng nay 12/5. Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 5/2023 đạt mức 202,3 yen/kg, giảm 0,1% (tương đương 0,2 yen/kg) tại thời điểm khảo sát.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 5/2023 được điều chỉnh xuống mức 11.615 nhân dân tệ/tấn, giảm 2,6% (tương đương 310 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.
Trong quý I/2023, giá mủ cao su nguyên liệu trên cả nước không có nhiều biến động. Diễn biến giá cao su trong nước cùng chiều với xu hướng giá thế giới, tuy nhiên xu hướng giá yếu hơn khá nhiều so với giá niêm yết trên các sở giao dịch hàng hóa lớn trên thế giới. Trong khi đó, giá năng lượng tăng kéo theo chi phí logistics tăng cũng là một yếu tố gây sức ép lên xuất khẩu cao su giai đoạn đầu năm.
Trong tháng 4/2023, giá mủ cao su nguyên liệu trên cả nước không có biến động. Trong đó, giá mủ nước tại Bình Phước và Đồng Nai giữ ở mức 270-280 đồng/TSC; Tại Đắk Lắk, Phú Yên, Quảng Trị giao dịch ở mức 250 đồng/TSC; còn ở các vùng nguyên liệu khác, giá cao su ghi nhận trong khoảng 225 – 240 đồng/TSC.
Trong quý I/2023, xuất khẩu cao su gặp nhiều khó khăn khi giá bán và sản lượng đều suy giảm do lạm phát cao và nhu cầu thấp. Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong quý I/2023, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 381,78 nghìn tấn, trị giá 531,3 triệu USD, giảm 6,1% về lượng và giảm 25,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), xét về chủng loại xuất khẩu trong quý I/2023, hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280) là hai mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất.
Cụ thể, xuất khẩu của hai mặt hàng này chiếm đến 67,19% về lượng và chiếm 67,19% về trị giá trong tổng xuất khẩu cao su của cả nước, đạt mức 259,47 nghìn tấn, trị giá 357 triệu USD, tăng 3,4% về lượng, nhưng giảm 18,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 99,76% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu của cả nước, với 258,85 nghìn tấn, trị giá 355,77 triệu USD, tăng 3,5% về lượng, nhưng giảm 18,2% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo khảo sát, giá xuất khẩu bình quân hầu hết các chủng loại cao su đều giảm so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó giảm mạnh nhất là SVR 10 đạt 1.380 USD/tấn, giảm 23,8%; RSS1 đạt 1.591 USD/ tấn, giảm 22,4%; RSS3 đạt 1.525 USD/tấn, giảm 21,8%; Hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280) đạt 1.376 USD/tấn, giảm 21,1%,...
Tin liên quan
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp