Advertisement

Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

Phục hồi kinh tế: Mở rộng chính sách tài khoá sao cho hiệu quả?

Quản trị

01/11/2021 17:03

Kích thích phục hồi kinh tế sau dịch lần thứ 4 đang là vấn đề trọng tâm của Chính phủ, và sẽ là bài toán cân não khi chính sách tiền tệ hẹp dư địa, đòi hỏi sự linh hoạt trong chính sách tài khoá.

Hạn hẹp dư địa chính sách tiền tệ

Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia cho biết, theo IMF và UNCTAD, hết quý 2/2021, các gói hỗ trợ tài khóa và tiền tệ toàn cầu đã lên tới 17.910 tỷ USD, tương đương 16% GDP toàn cầu năm 2020.

Trong đó, quy mô bình quân khoảng 19,5% GDP đối với các nước phát triển; 7,7% GDP đối với các nước đang phát triển và mới nổi, còn 4% GDP đối với các nước thu nhập thấp. Riêng Mỹ đã đưa ra các gói hỗ trợ với tổng giá trị 5.860 tỷ USD, tương đương khoảng 28% GDP.

quy-bo-lanh.png

Chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện không còn nhiều dư địa (ảnh minh hoạ).

Tại Việt Nam, gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng giá trị ước tính 36,6 nghìn tỷ đồng (0,6% GDP), bao gồm phần giảm lãi suất khi các TCTD cho vay mới (giảm 0,5-2,5%/năm so với thông thường) với quy mô cam kết ban đầu khoảng 600 nghìn tỷ đồng (thực tế cho vay mới đạt 3,16 triệu tỷ đồng cho gần 460 nghìn khách hàng).

Cơ cấu lại thời hạn trả nợ mà vẫn giữ nguyên nhóm nợ (không tính lãi phạt) cho 262 nghìn khách hàng với dư nợ 357 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm lãi (giảm 0,5-1,5% cho các khoản vay hiện hữu bị ảnh hưởng) cho gần 663 nghìn khách hàng với dư nợ 1,27 triệu tỷ đồng.

Miễn, giảm phí (phí thanh toán và một số phí dịch vụ khác...). Song song với đó, NHNN cũng đã 3 lần giảm các lãi suất điều hành, giúp các TCTD có điều kiện miễn, giảm lãi suất, cho vay mới lãi suất ưu đãi như nêu trên.

Cuối cùng, nhà nước phải chấp nhận thâm hụt ngân sách tăng (bình quân thế giới từ 3,6% GDP năm 2019 lên 10,2% GDP năm 2020 và 8% GDP năm 2021, sau đó giảm dần); nợ công tăng (bình quân thế giới từ 84% GDP năm 2019 lên 99% GDP năm 2020 và 98% GDP năm 2021, sau đó giảm dần).

Về chính sách tiền tệ, PGS.TS.Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, ĐH Kinh tế Quốc dân đánh giá nếu cố ép lãi suất xuống ngang lạm phát hoặc thấp hơn lạm phát, tiền sẽ chảy qua các kênh tài sản, đặc biệt là bất động sản và đẩy giá các tài sản này lên, hình thành “bong bóng” giá tài sản.

Bong bóng giá tài sản xảy ra sẽ gây rủi ro cho nền kinh tế, khiến quá trình hồi phục trở nên khó khăn, đồng thời gây ảnh hưởng xấu trực tiếp tới nhóm người có thu nhập trung bình và thấp trong xã hội.

“Ngoài ra, dư địa chính sách tiền tệ cũng liên quan vấn đề tỷ giá. Việt Nam không thể nới lỏng tiền tệ mạnh như khu vực châu Âu, Mỹ hay Nhật Bản được, vì đồng tiền của họ là đồng tiền mạnh.

Nếu Việt Nam hạ lãi suất mạnh, bơm tiền mạnh thì đồng tiền sẽ mất giá ngay, kéo theo việc dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị ảnh hưởng, nhà đầu tư nước ngoài bỏ tiền đầu tư vào Việt Nam nhưng trong ngắn hạn bị mất giá 5 - 10% thì không ai đầu tư cả...

Vì những lý do trên, có thể thấy rằng, chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện không còn nhiều dư địa”, vị PGS cho biết.

Mở rộng chính sách tài khóa

Bên cạnh chính sách tiền tệ, từ đầu năm 2021, Chính phủ đã ban hành một số gói hỗ trợ tài khoá như giãn hoãn thuế và tiền thuê đất năm 2021; Gia hạn tiền thuế TNDN; Gia hạn nộp thuế thu nhập hộ kinh doanh, cá thể. Đồng thời, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư về việc giảm 30 khoản phí, lệ phí, có hiệu lực từ ngày 1/7 đến 31/12/2021.

cstk.jpeg

Cần tăng cường mở rộng chính sách tài khoá để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch (ảnh minh hoạ).

Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo các Bộ, ngành nghiên cứu xây dựng gói hỗ trợ kinh tế với quy mô 23.000 tỷ đồng trên theo nguyên tắc hỗ trợ người dân thông qua việc làm ngắn hạn, tạm thời với những công việc không đòi hỏi kỹ năng tay nghề cao.

Đối với gói an sinh xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 68/NQCP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, cùng nhiều chính sách khác.

Tuy nhiên, ông Lực cho rằng: “Các gói hỗ trợ tài khóa chưa đủ lớn và rộng; tỷ lệ hỗ trợ tiền mặt (nhất là đối với lao động tự do) còn thấp và việc tung ra nhiều gói hỗ trợ trong khi ngân sách còn hạn hẹp, nợ xấu tiềm ẩn tăng, áp lực lạm phát tăng…trong khi nền kinh tế có dấu hiệu “lỡ nhịp”, “tụt hậu” trong quá trình phục hồi”.

Về dư địa chính sách tài khóa - tiền tệ thời gian tới, ông Lực nhận định, thâm hụt Ngân sách Nhà nước và nợ công vẫn trong tầm kiểm soát và thấp hơn các nước trong khu vực, trong khi có cơ hội tăng vay nợ trong nước và vay quốc tế với lãi suất thấp.

Trong khi đó, quy mô hỗ trợ tài khóa còn khá khiêm tốn và các cân đối lớn (thâm hụt Ngân sách/GDP, nợ công/GDP, nghĩa vụ trả nợ/thu Ngân sách nhà nước, lạm phát…) vẫn trong ngưỡng an toàn.

Theo quan điểm của vị chuyên gia, bài học kinh nghiệm quốc tế trong việc hỗ trợ cho thấy triển khai nhanh, gọn, ứng dụng mạnh công nghệ thông tin và dùng các kênh chuyển tiền khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp và người dân dễ hơn trong việc tiếp cận với các chính sách. Ngược lại, phía doanh nghiệp cũng phải có kế hoạch phục hồi kinh tế gắn với tăng trưởng xanh, bao trùm, đổi mới sáng tạo.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá, TS. Cấn Văn Lực đưa ra một số khuyến nghị như:

Thứ nhất, cần khẩn trương, quyết liệt thực hiện các gói hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đã ban hành. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo khẩn trương rà soát, đánh giá sơ bộ kết quả thực hiện các gói hỗ trợ đến thời điểm hiện tại và tiến hành tháo gỡ ngay những vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Thứ hai, Chính phủ xem xét ban hành các gói hỗ trợ tiếp theo, với tổng giá trị bổ sung khoảng gần 40 nghìn tỷ đồng (0,62% GDP năm 2020), chưa kể giá trị các gói hỗ trợ hiện tại có thể còn gia tăng khi được điều chỉnh, gia hạn.

Thứ ba, ngoài gói hỗ trợ 21.300 tỷ đồng UBTVQH đã thông qua, cần tăng khả năng tiếp cận vốn hỗ trợ thanh khoản cho các doanh nghiệp, đặc biệt với DNNVV có trọng tâm, trọng điểm và thời hạn cụ thể.

Thứ tư, NHNN tăng cường cho vay tái cấp vốn, tiếp tục linh hoạt hạn mức tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD, để các TCTD có thêm nguồn lực giảm lãi suất, cung ứng tín dụng hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.

Thứ năm, sớm xây dựng chiến lược, kịch bản phòng chống dịch trong điều kiện mới và phục hồi, phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh “bình thường mới”, cần có các động lực tăng trưởng mới và đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô nhằm chủ động tận dụng cơ hội phục hồi mạnh cũng như kiểm soát rủi ro (giá cả tăng, lạm phát tăng, đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi lao động…).

Thứ sáu, Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo sớm xây dựng thể chế, hành lang pháp lý cho quản lý, phát triển kinh tế số, xã hội và chính quyền số. Theo ba kịch bản chuyển đổi số quốc gia của chúng tôi; chuyển đổi số thành công có thể giúp GDP Việt Nam tăng trưởng thêm từ 0,53-1,85 điểm % từ nay đến năm 2030.

Thứ bảy, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm có thể huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; sớm ban hành Đề án cơ cấu lại nền kinh tế cũng như các đề án cơ cấu lại cấu phần quan trọng (DNNN, TCTD, đầu tư công và đơn vị sự nghiệp công…).

DIỄM NGỌC
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement