21/11/2022 09:29
Giá cao su được dự báo sẽ khó giữ được đà tăng
Thị trường nông sản hôm nay 21/11 ghi nhận giá cà phê giảm đồng loạt giảm, trong khi đó, theo dự báo giá cao su khó giữ được đà tăng trong tuần này.
Giá cà phê đồng loạt giảm
Giá cà phê trong nước hôm nay 21/11 dao động khoảng từ 32.500 - 33.100 đồng/kg.
Cụ thể, tại Lâm Đồng: 32.500 đồng/kg, Đắk Lắk: 33.000 đồng/kg, Đắk Nông: 32.900 đồng/kg, Gia Lai: 32.900 đồng/kg, Kon Tum: 32.800 đồng/kg.
Trong khi đó, trên thị trường thế giới, kết thúc phiên giao dịch sáng nay (giờ Việt Nam), giá cà phê Robusta tại London giảm 5 USD/tấn (0,36%) giao tháng 11/2020 giao dịch ở mức 1.365 USD/tấn, giao tháng 3/2021 giảm 8 USD, giao dịch ở mức 1.495 USD/tấn.
Trong khi đó, tại sàn New York ở Mỹ, giá cà phê Arabica giao tháng 12/2020 giảm 5,15 US cent/lb (4,27%), giao dịch ở mức 115,5 cent/lb; giao tháng 3/2021 giảm 5,15 US cent/lb (4,18%), giao dịch ở 118,05 cent/lb.
Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam cho biết, việc thắt tín dụng khiến những doanh nghiệp cà phê đúng vụ không được ngân hàng giải ngân tín dụng và gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, hiện nay lãi suất cao nên doanh nghiệp sử dụng cà phê tới đâu thì mua tới đó, không dự trữ như những năm trước. Từ đó, dẫn đến cà phê bị ép giá.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam Thái Như Hiệp dự đoán, lãi suất càng tăng thì giá cà phê càng giảm. Nếu giá cà phê dưới 40.000 đồng/kg thì người trồng lãi không bao nhiêu. Nguyên nhân do năm nay chi phí vật tư rất cao, phí nhân công cũng cao, lãi suất cũng cao. Hơn nữa, không có tín dụng thì doanh nghiệp cũng không mặn mà mua hàng dự trữ.
Mọi năm, ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn để mua hàng, còn năm nay không có tiền để mua cà phê, dẫn đến lệ thuộc vào thị trường xuất khẩu rất nhiều.
Thị trường hồ tiêu trầm lắng
Giá tiêu trong nước hôm nay 21/11 tiếp tục đi ngang. Cụ thể, tại Gia Lai là 58.000 đồng/kg, Đắk Lắk, Đắk Nông: 59.500 đồng/kg, tại Đồng Nai, Bình Phước: 60.500 đồng/kg, Bà Rịa - Vũng Tàu: 61.500 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới, giá tiêu hôm nay 21/11 cũng không có nhiều biến động so với phiên giao dịch trước. Hiện tại, giá tiêu đen Lampung (Indonesia) ở mức 3.498 USD/tấn. Giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA vẫn giữ ở mức 5.100 USD/tấn. Và giá hạt tiêu đen Brazil ASTA 570 neo ở mức 2.575 USD/tấn.
Đối với mặt hàng hạt tiêu trắng, giá hạt tiêu trắng Muntok của Indonesia ở quanh mốc 5.754 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn giữ có mức 7.300 USD/tấn.
Với tiêu Việt Nam, Cộng đồng Hồ tiêu quốc tế đã niêm yết giá hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam tăng, trong khi hạ giá của Indonesia, đồng thời giữ nguyên ở những thị trường khác. Cụ thể, tiêu đen loại 500g/l tăng thêm 1,61%, ở mức 3.100 USD/tấn; tiêu đen 550g/l tăng 1,56% lên 3.200 USD/tấn; còn tiêu trắng thêm 1,1%, ở mức 4.550 USD/tấn.
Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) nhận định thị trường tiếp tục cho thấy phản ứng trái chiều khi chỉ có giá nội địa Malaysia tăng. Giá tiêu Ấn Độ tuần này phản ứng tiêu cực. Giá tiêu Indonesia tuần này báo cáo có xu hướng giảm do xuất khẩu ít hơn do thiếu hàng. Tuần này IPC liên tiếp điều chỉnh tăng giảm với giá tiêu Indonesia.
Trong 5 năm trở lại đây, giá tiêu thế giới biến động theo xu hướng giảm. Năm 2015, giá FOB tiêu đạt đỉnh 10.000 USD/tấn đối với tiêu đen và 14.000 USD/tấn đối với tiêu trắng. Điều này đã dẫn đến việc mở rộng diện tích trồng tiêu ở hầu hết các nước. Do sự bùng nổ về diện tích, ngành gia vị thế giới đã chứng kiến sự sụt giảm về giá tiêu trong giai đoạn 2019 đến đầu năm 2020, với mức giảm 4 - 5 lần so với năm 2016.
Giá cao su được dự báo khó giữ được đà tăng
Giá cao su hôm nay tăng giảm trái chiều, tại Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE) giá cao su lao dốc mạnh và tại Sàn Tocom (Tokyo - Nhật Bản) giá cao su cũng chỉ nhích nhẹ, khó giữ được đà tăng trong tuần tới.
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (Tocom), giá cao su kỳ hạn giao tháng 11/2022 ghi nhận mức 214,8 JPY/kg, tăng 2 JPY/kg. Kỳ hạn cao su tháng 12/2022, cao su kỳ hạn tháng 1/2023, kỳ hạn tháng 2/2023 đều tăng dưới 1%, kỳ hạn tháng 3/2023 quay đầu giảm 0,18%.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 1/2023 ở mức 12.525 CNY/tấn, giảm 250 CNY/tấn.
Giá cao su Thượng Hải hôm nay quay đầu giảm mạnh ở các kỳ hạn tháng 3/2023, tháng 4/2023, tháng 5/2023, tháng 6/2023 ở mức giảm gần 2%.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, trong quý IV, xuất khẩu cao su của Việt Nam dự báo vẫn gặp khó khăn do đồng USD đã bước vào chu kỳ tăng giá như một tài sản trú ẩn trước lạm phát và mưa lớn kéo dài vào vụ cao điểm nên ảnh hưởng đến sản lượng mủ thu hoạch.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong quý III/2022, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 609,2 nghìn tấn, trị giá 930,8 triệu USD, tăng 6% về lượng, nhưng giảm 1,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam trong quý III tiếp tục tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2021 nhờ nhu cầu tiêu thụ cao su toàn cầu phục hồi, tuy nhiên trị giá vẫn giảm do giá cao su giảm mạnh.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, trong quý IV, xuất khẩu cao su của Việt Nam dự báo vẫn gặp khó khăn do đồng USD đã bước vào chu kỳ tăng giá như một tài sản trú ẩn trước lạm phát. Vì các loại hàng hóa cơ bản được tính bằng USD, nên khi USD tăng mạnh sẽ sẽ hạ giá trị các loại hàng hóa này. Cao su cũng không ngoại lệ khi giá mủ có diễn biến giảm trong giai đoạn đồng USD tăng mạnh.
Mặt khác, rủi ro của ngành cao su là mưa lớn kéo dài vào vụ cao điểm nên ảnh hưởng đến sản lượng mủ thu hoạch. Hiện tượng La Nina tiếp diễn năm thứ ba liên tiếp trong 2022 làm gia tăng tần suất và lượng mưa, qua đó tác động tiêu cực đến hoạt động thu hoạch và sản lượng mủ cao su của các doanh nghiệp.
Trong quý III, cao su của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang khu vực châu Á, chiếm gần 90% tổng trị giá xuất khẩu cao su của cả nước, với lượng xuất khẩu đạt 549 nghìn tấn, trị giá 836 triệu USD, tăng hơn 9% về lượng và tăng hơn 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Trong quý III, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang phần lớn các thị trường đều tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ cao su của Việt Nam, với 453 nghìn tấn, trị giá 669 triệu USD, tăng 10,4% về lượng và tăng 0,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 70,2% trong tổng trị giá xuất khẩu cao su của cả nước.
Đứng thứ hai là xuất khẩu sang Ấn Độ với 42 nghìn tấn, trị giá 69,6 triệu USD, tăng 25% về lượng và tăng 18,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 6,2% trong tổng trị giá xuất khẩu cao su của cả nước trong quý III/2022.
Tin liên quan
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp