16/08/2020 15:23
Đà giảm giá heo hơi sẽ còn kéo dài sang tuần tới?
Dự báo giá heo hơi tuần tới (17-22/8) tiếp tục duy trì đà giảm, khi người dân đang tích cực tái đàn, giúp tổng sản lượng heo tăng và hỗ trợ nguồn cung cho thị trường.
Trong tuần qua, giá heo hơi tiếp tục giảm trung bình từ 1.000 - 5.000 đồng/kg trên cả nước. Cụ thể, tại miền Bắc ghi nhận giá heo hơi có mức giảm mạnh trong tuần này, riêng Hà Nội giảm sâu 5.000 đồng/kg xuống còn 83.000 đồng/kg. Trong đó, giá heo hơi tại miền Trung và Nam lại có một tuần tăng giảm trái chiều tại các tỉnh, thành.
Hiện tại, giá heo các địa phương ở miền Bắc đang bán ở mức 83.000 - 86.000 đồng/kg, tại miền Trung và Nam từ 80.000 - 87.000 đồng/kg.
Giá heo hơi trong tuần đã bắt đầu hạ nhiệt, sau khi tổng sản lượng đàn heo ông bà đã tăng và heo giống giảm còn 2,5 triệu đồng/con.
Theo thống kê của Cục Chăn nuôi, trong tổng đàn heo nái ông bà của Việt Nam, các giống nhập ngoại hiện chiếm 80%, nái lai giữa heo ngoại với heo nội và nái thuần chiếm 20%.
Theo Cục Chăn nuôi, trong điều kiện khó khăn về con giống, hiện các cơ sở chăn nuôi đã chọn giải pháp tăng tỉ lệ chọn heo giống từ 5 lên 6 con/nái sinh sản ông bà vào phối giống.
Như vậy, Cục Chăn nuôi tính toán, trên cơ sở 109.000 con heo nái ông bà vào phối giống, kết quả đã tăng trưởng được trên 18.000 con nái ông bà.
Số lượng 18.000 con heo nái ông bà mới được nhân giống cơ bản đã bù đắp kịp thời số lượng heo ông bà giảm do dịch tả heo Châu Phi, là 11.000 con.
Sau khi dịch tả heo Châu Phi tạm qua đi, nhiều địa phương công bố hết dịch, nhu cầu cao về con giống tái đàn đã đẩy giá heo giống tăng cao hơn, theo báo Nông Nghiệp Việt Nam.
Tại một số trại heo và người chăn nuôi nhỏ tại ở ĐBSCL còn trụ được qua mùa dịch này, heo giống sau cai sữa 10 ngày, trọng lượng khoảng 8-10 kg/con, giá khoảng 2,5 triệu đồng/con
Bên cạnh đó, quy trình chăn nuôi an toàn sinh học đã được nhân rộng trong các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Với mục tiêu kiểm soát tốt dịch bệnh, đảm bảo an toàn đàn vật nuôi, ngành Chăn nuôi luôn đẩy mạnh, phát triển hình thức chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học.
Tuy nhiên, quy trình này chỉ mới được áp dụng tại các trang trại chăn nuôi tập trung có quy mô công nghiệp, chưa nhân rộng ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ.
Theo Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học là quy trình chăn nuôi ứng dụng các biện pháp kĩ thuật, quản lí nhằm ngăn ngừa, hạn chế sự lây nhiễm các tác nhân gây bệnh trên đàn vật nuôi và có khả năng gây hại đến con người và môi trường.
Ông Nguyễn Văn Lâm, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y, cho hay: Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ, ngành Nông nghiệp cũng đã triển khai nhiều mô hình, tổ chức các lớp tập huấn để người chăn nuôi tiếp cận với quy trình chăn nuôi này.
Nhờ vậy mà những năm gần đây, mặc dù trên địa bàn tỉnh xảy ra nhiều đợt dịch bệnh nguy hiểm, nhất là dịch tả heo châu Phi, gây thiệt hại lớn nhưng các trang trại vẫn phát triển ổn định, không bùng phát dịch, theo ghi nhận của báo Phú Yên.
Ông Võ Văn Tính ở xã Hòa Quang Bắc (huyện Phú Hòa) cho biết: Trang trại nuôi heo rộng 2ha của gia đình tôi được xây dựng cách xa khu dân cư hơn một cây số. Các khu chuồng có công nghệ chuồng lạnh, áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học.
Từ con giống, thức ăn, nước uống, người ra vào trại đều được kiểm soát chặt chẽ... Nhờ vậy, đợt dịch tả heo châu Phi hồi năm 2019, trại heo không bị ảnh hưởng gì, toàn bộ đàn nuôi đều an toàn, không nhiễm bệnh.
BẢNG GIÁ HEO HƠI DỰ BÁO NGÀY 17/8/2020 | ||
Tỉnh/thành | Khoảng giá (đồng/kg) | Tăng ( )/giảm (-) đồng/kg |
Hà Nội | 84.000-85.000 | -1.000 |
Hải Dương | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Thái Bình | 86.000-87.000 | -2.000 |
Bắc Ninh | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Hà Nam | 84.000-85.000 | -1.000 |
Hưng Yên | 86.000-87.000 | -1.000 |
Nam Định | 86.000-87.000 | -2.000 |
Ninh Bình | 87.000-88.000 | -1.000 |
Hải Phòng | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ninh | 87.000-88.000 | Giữ nguyên |
Lào Cai | 83.000-84.000 | -1.000 |
Tuyên Quang | 87.000-88.000 | -1.000 |
Cao Bằng | 83.000-84.000 | Giữ nguyên |
Bắc Kạn | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Phú Thọ | 85.000-86.000 | -1.000 |
Thái Nguyên | 87.000-88.000 | -2.000 |
Bắc Giang | 87.000-88.000 | -2.000 |
Vĩnh Phúc | 86.000-87.000 | -2.000 |
Lạng Sơn | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Lai Châu | 87.000-88.000 | Giữ nguyên |
Thanh Hóa | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Nghệ An | 84.000-85.000 | -1.000 |
Hà Tĩnh | 86.000-87.000 | -1.000 |
Quảng Bình | 80.000-82.000 | Giữ nguyên |
Quảng Trị | 83.000-84.000 | -1.000 |
TT-Huế | 83.000-84.000 | -1.000 |
Quảng Nam | 83.000-84.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ngãi | 80.000-81.000 | Giữ nguyên |
Bình Định | 81.000-82.000 | -1.000 |
Phú Yên | 81.000-82.000 | Giữ nguyên |
Ninh Thuận | 87.000-88.000 | -1..000 |
Khánh Hòa | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Bình Thuận | 80.000-81.000 | Giữ nguyên |
Đắk Lắk | 84.000-85.000 | -1.000 |
Đắk Nông | 80.000-81.000 | Giữ nguyên |
Lâm Đồng | 86.000-87.000 | -1.000 |
Gia Lai | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Đồng Nai | 85.000-86.000 | -1.000 |
TP.HCM | 85.000-86.000 | -2.000 |
Bình Dương | 85.000-86.000 | -2.000 |
Bình Phước | 84.000-85.000 | -2.000 |
BR-VT | 85.000-86.000 | -1.000 |
Long An | 87.000-88.000 | Giữ nguyên |
Tiền Giang | 83.000-84.000 | -1.000 |
Bạc Liêu | 81.000-82.000 | -1.000 |
Bến Tre | 82.000-83.000 | -1.000 |
Trà Vinh | 80.000-81.000 | -1.000 |
Cần Thơ | 82.000-83.000 | -1.000 |
Hậu Giang | 83.000-84.000 | Giữ nguyên |
Cà Mau | 85.000-86.000 | -2.000 |
Vĩnh Long | 80.000-81.000 | -1.000 |
An Giang | 85.000-86.000 | -1.000 |
Kiêng Giang | 85.000-86.000 | -2.000 |
Sóc Trăng | 84.000-85.000 | -1.000 |
Đồng Tháp | 81.000-82.000 | -1.000 |
Tây Ninh | 83.000-84.000 | Giữ nguyên |
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp