Advertisement

Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

Trung Quốc có thể thống trị thế giới thời kỳ hậu COVID-19?

Vĩ mô

20/05/2020 18:44

Sự thật là “lực bất tòng tâm", dù Trung Quốc có tham vọng, theo South China Moring Post.

Nhìn lại quá khứ

Câu hỏi đã trở nên phổ biến, với không ít câu trả lời thiên về chiều hướng Trung Quốc sẽ nổi lên mạnh mẽ hơn từ đại dịch COVID-19. Quốc gia này sẽ cố gắng lấp đầy khoảng trống trên sân khấu toàn cầu do nước Mỹ để lại.

Nhưng trên thực tế, Trung Quốc chưa sẵn sàng cho vị trí lãnh đạo toàn cầu. Trong giai đoạn khủng hoảng này, Chủ tịch Tập Cận Bình tương tự Mao Trạch Đông 50 năm trước, rất muốn ưu tiên giải quyết các vấn đề riêng của đất nước.

Cách nay nửa thế kỷ, Trung Quốc phải đối mặt với môi trường quốc tế tồi tệ nhất kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập.
Cách nay nửa thế kỷ, Trung Quốc phải đối mặt với môi trường quốc tế tồi tệ nhất kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập.

Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, Trung Quốc phải đối mặt với môi trường quốc tế tồi tệ nhất kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949. Bên cạnh việc bị các cường quốc phương Tây cô lập, Trung Quốc đã có cuộc chiến với Liên Xô trong cuộc đụng độ biên giới tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu tại đảo Zhenbao năm 1969. Cuộc xung đột quân sự này khi đó làm dấy lên nỗi lo của cộng đồng quốc tế về một thế chiến mới với vũ khí hạt nhân.

Để chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông kêu gọi người dân đào hầm sâu, tích trữ lương thực và không bao giờ nghĩ tới bá quyền. Nỗi sợ Moscow ngày càng tăng của Bắc Kinh đã khiến Mao Trạch Đông thay đổi chiến lược toàn cầu của Trung Quốc. Ông đã tìm cách hàn gắn mối quan hệ với kẻ thù lâu đời của nước này là Mỹ, mở đường cho Trung Quốc tái hòa nhập với cộng đồng quốc tế.

Chưa đủ tầm

50 năm sau, hiện nay bối cảnh đã nhiều thay đổi. Bắc Kinh và Moscow nồng ấm trong mối quan hệ đối tác, dù chưa phải là đồng minh. Ngược lại, quan hệ Bắc Kinh - Washington đang đi từ xấu đến tồi tệ hơn.

Cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa đủ tầm với vai trò lãnh đạo toàn cầu.
Cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa đủ tầm với vai trò lãnh đạo toàn cầu.

Tuy nhiên, nửa thế kỷ trôi qua tư tưởng Mao (về bá quyền) vẫn còn ảnh hưởng to lớn trong giới lãnh đạo Trung Quốc. Đây cũng chính là cơ sở cho những ai cố gắng tìm hiểu cách mà Trung Quốc nhìn nhận, nắm bắt, tận dụng và thích nghi với tình hình quốc tế thay đổi nhanh chóng, được thúc đẩy bởi đại dịch COVID-19.

Khi hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc gia tăng khuấy động một thế giới bất ổn sau COVID-19, nhiều người nghĩ rằng Trung Quốc sẽ nổi lên mạnh mẽ hơn từ cuộc khủng hoảng này. Bắc Kinh cố gắng lấp đầy khoảng trống do Mỹ để lại trong vị thế nhà lãnh đạo toàn cầu, khi Washington thu mình lại theo tư tưởng “Nước Mỹ trước tiên” của Tổng thống Donald Trump. Chính điều này đã gây lầm tưởng về “cái thời” của Trung Quốc đã đến.

“Phe” nhận định Trung Quốc sẽ trở thành bá chủ thế giới sau đại dịch COVID-19, mà điển hình là Kishore Mahbubani, nhà ngoại giao người Singapore và là nhà tư tưởng có ảnh hưởng, gần đây đã nêu luận điểm trên tạp chí The Economist. Theo đó, đại dịch COVID-19 có thể đánh dấu sự khởi đầu của một “thế kỷ châu Á” do Trung Quốc lãnh đạo. Ông so sánh việc xử lý hiệu quả dịch bệnh của chính phủ các nước châu Á với phản ứng lúng túng của phương Tây.

Các nhà bình luận cánh hữu ở Mỹ như Tucker Carlson của Fox News (người đã tuyên bố Bắc Kinh lợi dụng sự hỗn loạn để thúc đẩy kế hoạch thống trị thế giới) cũng cảnh báo thảm họa COVID-19 có thể báo trước một “thế kỷ Trung Quốc”.

Kể từ khi Trung Quốc dỡ bỏ việc phong tỏa thành phố Vũ Hán (tâm chấn ban đầu của đại dịch) vào đầu tháng trước, truyền thông nước này đã mở chiến dịch tuyên truyền rầm rộ để ca ngợi tính ưu việt của thể chế, tự ca ngợi những nỗ lực giúp các quốc gia khác như một cường quốc có trách nhiệm.

Tuy nhiên, đằng sau những lời hoa mỹ là một thực tế phủ phàng về tình hình trong nước và quốc tế mà Trung Quốc phải đối mặt, theo South China Moring Post.

Ngày 8/4, Ban thường vụ Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu ra viễn cảnh ảm đạm hơn về những thách thức quốc tế do đại dịch gây ra. Ông Tập Cận Bình thừa nhận sự lan rộng của virus corona ra toàn cầu đã mang lại rủi ro to lớn cho nền kinh tế thế giới, đồng thời dẫn đến sự gia tăng đáng kể các yếu tố gây bất ổn trong nước.

Ông Tập kêu gọi phải sẵn sàng cho các tình huống xấu nhất, chuẩn bị tinh thần và năng lực phù hợp để giải quyết những vấn đề bất lợi đối với nước này trong tình hình thế giới đầy biến động. Đây không phải lần đầu tiên ông Tập Cận Bình kêu gọi các quan chức chuẩn bị tinh thần cho các tình huống xấu nhất. Đầu năm ngoái, ông từng đưa ra cảnh báo tương tự trong bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc lâm vào suy thoái do ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc chiến thương mại với Mỹ.

Tất cả những điều này cho thấy lãnh đạo Trung Quốc có một cái nhìn rõ ràng về những thách thức. Trong khi “giấc mơ Trung Hoa” dẫn đầu thế giới chỉ là do tuyên truyền quá mức nhằm kích động chủ nghĩa dân tộc nhắm vào đối tượng trong nước.

Không sẵn sàng

Sự tàn phá của đại dịch COVID-19 làm hình thành nên một phản ứng dữ dội toàn cầu chống lại Trung Quốc. Quốc gia này đang phải đối mặt với môi trường quốc tế thù địch nhất kể từ sự kiện Thiên An Môn hồi năm 1989.

Kể từ khi đại dịch bắt đầu, ông Tập đã gọi điện thoại với hơn 40 người đứng đầu chính phủ nước ngoài, kêu gọi hợp tác quốc tế trong ngăn chặn virus corona, hứa hẹn cung cấp hỗ trợ chuyên gia và vật tư y tế nhằm xây dựng hình ảnh cường quốc có trách nhiệm.

Trung Quốc vẫn chưa thể hiện được hình ảnh một cường quốc có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế.
Trung Quốc vẫn chưa thể hiện được hình ảnh một cường quốc có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế.

Nhưng Trung Quốc không được trang bị, cũng như không sẵn sàng bước lên vị trí lãnh đạo toàn cầu vào thời điểm khủng hoảng quốc tế. Thực tế này đã diễn ra, ngay cả khi Mỹ rút lui khỏi sân khấu thế giới khiến các đồng minh phương Tây thất vọng, Trung Quốc vẫn chưa thể lấp đầy các khoảng trống quyền lực mà Mỹ để lại.

Ngay cả khi Washington dừng tài trợ cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Bắc Kinh chỉ “nhỏ giọt” quyên tặng 50 triệu USD trong hai đợt cho các nỗ lực quan trọng của WHO để ngăn chặn đại dịch. Trong khi đó để so sánh, Bill Gates (người đồng sáng lập Microsoft) đã cam kết chi 305 triệu USD, trong đó bao gồm khoản tài trợ cho WHO để ngăn chặn đại dịch COVID-19.

Còn Liên minh châu Âu (EU) đã tổ chức hội nghị quyên góp 8 tỷ USD dành cho những nỗ lực phát triển thuốc và vắc-xin. Trong khi các nhà lãnh đạo Đức, Pháp, Anh, Nhật Bản đều tham dự, còn Mỹ vắng mặt thì Trung Quốc chỉ cử đại sứ tại EU tham dự và không đưa ra bất kỳ cam kết tài chính nào.

Các phương tiện truyền thông quốc tế gần đây đã tập trung chỉ trích Trung Quốc về cách nước này cố tạo ra câu chuyện về sự lãnh đạo quốc tế của mình thông “ngoại giao khẩu trang”. Theo đó, việc tặng vật tư y tế cho nước khác chỉ mang tính nhân đạo và bày tỏ thiện chí, không nên coi đó là phương cách nhằm tìm kiếm vai trò lãnh đạo toàn cầu. Trung Quốc đừng quên đã nhận được sự giúp đỡ hào phóng từ cộng đồng quốc tế, khi dịch COVID-19 ở Vũ Hán lần đầu tiên được báo cáo.

Nhiều nhà phân tích đã cảnh báo rằng, Trung Quốc không nên tự ca ngợi quá mức thành công của chính mình trong việc khống chế đại dịch, khi mà virus corona xuất phát từ nước này vẫn đang tàn phá khắp thế giới. Bởi vì cách tuyên truyền này chỉ khiến khơi lên nỗi bất bình từ những quốc gia đang gánh chịu hậu quả nặng nề của đại dịch.

Việc Bắc Kinh chưa thể thay thế vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ một phần là do năng lực, nguồn lực và kinh nghiệm hạn chế. Phần khác còn vì bị cản trở bởi một cuộc tranh luận nội bộ về các ưu tiên của chính Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã khẳng định rằng, dù tình hình quốc tế có trở nên phức tạp đến đâu cũng phải ưu tiên xử lý tốt các vấn đề trong nước. Điều này đặc biệt đúng vào thời điểm khủng hoảng hiện nay, khi mà nền kinh tế lớn thứ hai thế giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.

Thống kê tình hình dịch bệnh COVID-19

VIỆT NAM

1405

CA NHIỄM

35

CA TỬ VONG

1252

CA PHỤC HỒI

THẾ GIỚI

74.034.769

CA NHIỄM

1.646.705

CA TỬ VONG

52.025.523

CA PHỤC HỒI

Nơi khởi bệnh Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
Đà Nẵng 412 31 365
Hà Nội 174 0 167
Hồ Chí Minh 144 0 123
Quảng Nam 107 3 101
Bà Rịa - Vũng Tàu 69 0 65
Khánh Hòa 64 0 29
Bạc Liêu 50 0 48
Thái Bình 38 0 35
Hải Dương 32 0 29
Ninh Bình 32 0 28
Đồng Tháp 24 0 21
Hưng Yên 23 0 22
Thanh Hóa 21 0 19
Quảng Ninh 20 0 20
Bắc Giang 20 0 20
Hoà Bình 19 0 19
Vĩnh Phúc 19 0 19
Nam Định 15 0 15
Bình Dương 12 0 12
Cần Thơ 10 0 10
Bình Thuận 9 0 9
Bắc Ninh 8 0 8
Đồng Nai 7 0 4
Quảng Ngãi 7 0 7
Hà Nam 7 0 5
Quảng Trị 7 1 6
Tây Ninh 7 0 7
Trà Vinh 5 0 5
Lạng Sơn 4 0 4
Hà Tĩnh 4 0 4
Hải Phòng 3 0 3
Ninh Thuận 3 0 2
Thanh Hoá 3 0 2
Phú Thọ 3 0 3
Đắk Lắk 3 0 3
Thừa Thiên Huế 2 0 2
Lào Cai 2 0 2
Thái Nguyên 1 0 1
Cà Mau 1 0 1
Kiên Giang 1 0 1
Bến Tre 1 0 1
Lai Châu 1 0 1
Hà Giang 1 0 1
Quốc Gia Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
United States 17.159.794 311.316 10.015.012
India 9.933.997 144.144 9.456.552
Brazil 6.974.258 182.854 6.067.862
Russia 2.734.454 48.564 2.176.100
France 2.391.447 59.072 179.087
Turkey 1.898.447 16.881 1.661.191
Italy 1.888.144 66.537 1.175.901
United Kingdom 1.888.116 64.908 0
Spain 1.771.488 48.401 0
Argentina 1.510.203 41.204 1.344.300
Colombia 1.444.646 39.356 1.328.430
Germany 1.388.184 23.916 1.025.000
Mexico 1.267.202 115.099 938.089
Poland 1.159.901 23.914 892.650
Iran 1.131.077 52.883 844.430
Peru 987.675 36.817 922.314
Ukraine 919.704 15.744 535.417
South Africa 873.679 23.661 764.977
Netherlands 639.746 10.246 0
Indonesia 636.154 19.248 521.984
Belgium 611.422 18.178 41.973
Czech Republic 594.148 9.882 516.786
Iraq 578.916 12.636 513.405
Chile 576.731 15.959 549.852
Romania 571.749 13.862 469.499
Bangladesh 495.841 7.156 429.351
Canada 477.353 13.702 388.018
Philippines 452.988 8.833 419.282
Pakistan 445.977 9.010 388.598
Morocco 403.619 6.711 362.911
Switzerland 394.453 6.316 311.500
Israel 363.287 3.030 340.145
Saudi Arabia 360.335 6.080 351.192
Portugal 358.296 5.815 283.719
Sweden 348.585 7.802 0
Austria 330.343 4.764 291.042
Hungary 288.567 7.381 83.940
Serbia 282.601 2.482 31.536
Jordan 267.585 3.465 230.274
Nepal 250.916 1.743 238.569
Ecuador 202.356 13.896 177.951
Georgia 198.387 1.922 167.281
Panama 196.987 3.411 164.855
United Arab Emirates 188.545 626 165.749
Azerbaijan 187.336 2.050 122.859
Bulgaria 184.287 6.005 87.935
Japan 184.042 2.688 155.547
Croatia 183.045 2.870 157.773
Belarus 165.897 1.291 143.373
Dominican Republic 156.585 2.372 121.988
Costa Rica 154.096 1.956 121.031
Armenia 150.218 2.556 128.694
Lebanon 148.877 1.223 104.207
Bolivia 147.716 9.026 126.720
Kuwait 146.971 913 142.909
Kazakhstan 143.735 2.147 128.218
Qatar 141.417 242 139.042
Slovakia 139.088 1.309 101.584
Guatemala 130.828 4.510 119.288
Moldova 130.329 2.650 112.677
Greece 127.557 3.870 9.989
Oman 126.835 1.480 118.736
Egypt 122.609 6.966 105.450
Denmark 119.779 975 83.801
Ethiopia 117.542 1.813 96.307
Palestine 115.606 1.048 90.952
Honduras 114.943 3.001 52.392
Tunisia 113.241 3.956 86.801
Myanmar 111.900 2.346 90.453
Venezuela 108.480 965 103.271
Bosnia Herzegovina 103.232 3.511 68.245
Slovenia 100.389 2.190 77.453
Lithuania 99.869 907 43.379
Paraguay 95.353 1.991 67.953
Algeria 93.065 2.623 61.307
Kenya 92.853 1.614 74.403
Libya 92.577 1.324 62.720
Bahrain 89.444 349 87.490
Malaysia 87.913 429 72.733
China 86.770 4.634 81.821
Kyrgyzstan 78.151 1.317 71.270
Ireland 76.776 2.134 23.364
Macedonia 75.597 2.194 51.493
Uzbekistan 75.396 612 72.661
Nigeria 74.132 1.200 66.494
Singapore 58.353 29 58.238
Ghana 53.386 327 52.048
Albania 50.637 1.040 26.381
Afghanistan 49.970 2.017 38.648
South Korea 45.442 612 32.947
Montenegro 42.563 610 32.550
El Salvador 42.397 1.219 38.481
Luxembourg 42.250 418 33.486
Norway 42.077 402 34.782
Sri Lanka 34.447 157 25.652
Finland 31.870 472 22.500
Uganda 28.733 225 10.070
Australia 28.056 908 25.690
Latvia 27.495 382 18.153
Cameroon 25.359 445 23.851
Sudan 21.864 1.372 12.667
Ivory Coast 21.775 133 21.335
Estonia 19.271 160 12.117
Zambia 18.456 369 17.635
Madagascar 17.587 259 16.992
Senegal 17.336 352 16.349
Namibia 17.276 164 15.196
Mozambique 17.143 145 15.241
Angola 16.362 372 8.990
French Polynesia 15.870 97 4.842
Cyprus 15.789 84 2.057
Congo [DRC] 14.930 364 12.859
Guinea 13.474 80 12.727
Maldives 13.392 48 12.760
Botswana 12.873 38 10.456
Tajikistan 12.815 89 12.253
French Guiana 12.026 71 9.995
Jamaica 11.907 276 8.371
Zimbabwe 11.522 310 9.599
Mauritania 11.431 236 8.248
Malta 11.415 180 9.516
Cape Verde 11.395 110 11.055
Uruguay 10.418 98 6.895
Cuba 9.671 137 8.658
Haiti 9.597 234 8.280
Belize 9.511 211 4.514
Syria 9.452 543 4.494
Gabon 9.351 63 9.204
Réunion 8.534 42 8.037
Guadeloupe 8.524 154 2.242
Hong Kong 7.804 123 6.439
Bahamas 7.698 164 6.081
Andorra 7.382 79 6.706
Swaziland 6.912 132 6.476
Trinidad and Tobago 6.900 123 6.204
Rwanda 6.832 57 6.036
Democratic Republic Congo Brazzaville 6.200 100 4.988
Malawi 6.091 187 5.661
Guyana 5.973 156 5.144
Nicaragua 5.887 162 4.225
Mali 5.878 205 3.697
Djibouti 5.759 61 5.628
Mayotte 5.616 53 2.964
Iceland 5.578 28 5.421
Martinique 5.575 42 98
Suriname 5.381 117 5.231
Equatorial Guinea 5.195 85 5.061
Aruba 5.079 46 4.911
Central African Republic 4.936 63 1.924
Somalia 4.579 121 3.529
Burkina Faso 4.300 73 2.940
Thailand 4.261 60 3.977
Gambia 3.785 123 3.653
Curaçao 3.699 11 1.889
Togo 3.295 66 2.821
South Sudan 3.222 62 3.043
Benin 3.090 44 2.972
Sierra Leone 2.451 75 1.853
Guinea-Bissau 2.447 44 2.378
Lesotho 2.365 46 1.423
Niger 2.361 82 1.329
Channel Islands 2.192 48 1.339
New Zealand 2.100 25 2.032
Yemen 2.085 606 1.384
San Marino 2.025 54 1.694
Chad 1.784 102 1.611
Liberia 1.773 83 1.406
Liechtenstein 1.600 21 1.377
Vietnam 1.405 35 1.252
Sint Maarten 1.269 26 1.111
Gibraltar 1.125 6 1.046
Sao Tome and Principe 1.010 17 952
Mongolia 918 0 384
Saint Martin 801 12 675
Turks and Caicos 771 6 741
Taiwan 749 7 612
Burundi 735 1 640
Papua New Guinea 729 8 601
Diamond Princess 712 13 699
Eritrea 711 0 564
Monaco 678 3 609
Comoros 633 7 606
Faeroe Islands 532 0 512
Mauritius 524 10 489
Tanzania 509 21 183
Bermuda 467 9 250
Bhutan 439 0 408
Isle of Man 373 25 344
Cambodia 362 0 319
Cayman Islands 302 2 277
Barbados 297 7 273
Saint Lucia 278 4 240
Seychelles 202 0 184
Caribbean Netherlands 177 3 166
St. Barth 162 1 127
Brunei 152 3 148
Antigua and Barbuda 148 5 138
Saint Vincent and the Grenadines 98 0 81
Dominica 88 0 83
Grenada 85 0 41
British Virgin Islands 76 1 72
Fiji 46 2 38
Macau 46 0 46
Laos 41 0 36
New Caledonia 37 0 35
Timor-Leste 31 0 30
Saint Kitts and Nevis 28 0 23
Vatican City 27 0 15
Falkland Islands 23 0 17
Greenland 19 0 18
Solomon Islands 17 0 5
Saint Pierre Miquelon 14 0 14
Montserrat 13 1 12
Western Sahara 10 1 8
Anguilla 10 0 4
MS Zaandam 9 2 7
Marshall Islands 4 0 4
Wallis and Futuna 3 0 1
Samoa 2 0 2
Vanuatu 1 0 1
Dữ liệu trên được thống kê theo nguồn https://corona.kompa.ai/, https://ncov.moh.gov.vn/
TRẦN NGHỊ
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement