01/04/2020 10:04
Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu trở lại nhưng muốn ép giá thủy sản
Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu trở lại nhưng đơn đặt hàng không nhiều, hơn nữa, khách hàng Trung Quốc muốn ép giá mặc dù giá chào bán sản phẩm đã thấp hơn so với trước dịch.
Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, dịch Covid 19 lây lan mạnh trên toàn cầu khiến cho sản xuất và xuất khẩu thủy sản của cả nước bị ảnh hưởng nặng nề. Ước tính xuất khẩu thủy sản trong tháng 3 giảm gần 20% so với cùng kỳ năm ngoái chỉ đạt 549 triệu USD. Trong đó, xuất khẩu sang những thị trường lớn bị ảnh hưởng dịch bệnh đều giảm mạnh. Xuất khẩu sang EU giảm sâu nhất (-40%), sang Trung Quốc giảm 25%, Hàn Quốc giảm 24%, Nhật Bản giảm 19%.
Xuất khẩu sang Mỹ giảm ít hơn các thị trường khác (-8.6%) có thể nhờ sản phẩm thủy sản của Việt Nam vẫn giữ được thị phần tại phân khúc bán lẻ. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản của Mỹ nói chung giảm nhưng nhu cầu các sản phẩm tươi, sống, đóng hộp vẫn tăng. Trong tuần đầu tháng 3, doanh số bán lẻ thủy sản đóng hộp tại Mỹ tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo phản ánh của một số doanh nghiệp thủy sản, thị trường Trung Quốc đã có nhu cầu nhập khẩu trở lại nhưng đơn đặt hàng không nhiều, hơn nữa, khách hàng Trung Quốc muốn ép giá mặc dù giá chào bán sản phẩm đã thấp hơn so với trước dịch. Hơn nữa, sau khi dịch COVID-19 bớt căng thẳng tại Trung Quốc, các doanh nghiệp nước này có nhu cầu nhập khẩu nhưng khó tiếp cận các nguồn tài chính để vay vốn.
Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu trở lại nhưng muốn ép giá thủy sản Việt. |
Dịch bùng phát, nhiều nước phong tỏa khiến cho hoạt động thương mại đình trệ, do vậy xuất khẩu sang các thị trường sụt giảm mạnh. Các thị trường có tỷ lệ khách hàng yêu cầu hoãn giao hàng hoặc hủy đơn hàng tập trung chủ yếu tại thị trường Châu Âu, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tiêu thụ chậm khiến việc thanh toán cũng bị trì hoãn ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn của doanh nghiệp.
Trong tháng 3/2020, xuất khẩu cá tra và cá ngừ đều giảm trên 29%, xuất khẩu mực- bạch tuộc giảm mạnh hơn trên 31%, trong khi xuất khẩu tôm giảm 15%.
Tính đến hết tháng 3/2020, xuất khẩu thủy sản của cả nước ước đạt trên 1,5 tỷ USD, giảm 14%. Trong đó, xuất khẩu cá tra giảm mạnh nhất (-31%) , chủ yếu do giảm sang thị trường Trung Quốc từ 2 tháng đầu năm. xuất khẩu tôm giảm nhẹ 4,3%, trong khi xuất khẩu các mặt hàng hải sản giảm sâu (cá ngừ giảm 13,5%, mực-bạch tuộc giảm 28%).
Hiện nay, giá tôm, cá tra nguyên liệu đều giảm vì người nuôi sợ rớt giá thu hoạch sớm, một số doanh nghiệp tạm ngừng mua nguyên liệu vì đơn hàng giảm (bị hoãn, hủy, không có đơn hàng mới), kho lạnh để trữ hàng bị đầy và thiếu. Tình trạng này có thể dẫn đến thiếu nguyên liệu vào cuối năm, khi dịch bệnh hết, nhu cầu tăng lại nếu người nuôi hạn chế hoặc bỏ ao vì không trụ được ở giai đoạn này.
Diễn biến dịch bệnh COVID-19 còn đang rất phức tạp tại các nước trên thế giới, do vậy, trong vài tháng tới, tình hình xuất khẩu chắc chắn tiếp tục bị tác động giảm. doanh nghiệp chưa thể thoát khỏi tình trạng bị sụt giảm, hoãn/hủy đơn hàng, vận tải hàng hóa khó khăn, việc thanh toán cũng không thuận lợi, sẽ có không ít doanh nghiệp (nhất là những doanh nghiệp nhỏ) không thể trụ vững vì thiếu vốn để duy trì, để quay vòng kinh doanh.
Do vậy, doanh nghiệp thủy sản đang rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ ngành liên quan nhằm giảm bớt áp lực và khó khăn do ảnh hưởng của COVID-19: miễn nộp kinh phí Công đoàn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm giá điện, thuê kho lạnh, gia hạn thanh toán điện, giãn nợ, cho vay lãi suất thấp, giảm các thủ tục hành chính, thanh tra, kiểm tra và chuẩn bị phương án và điều kiện để hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất – xuất khẩu sau dịch.
xuất khẩu thủy sản sang các thị trường, T1-3/2020 (triệu USD) | ||||
THỊ TRƯỜNG | Tháng 3/2020 (ước) | So với cùng kỳ 2019 (%) | Từ 1/1 – 31/3/2020 (ước) | So với cùng kỳ 2019 (%) |
Nhật Bản | 103,000 | -18,9 | 287,637 | -6,4 |
Mỹ | 95,866 | -8,6 | 275,423 | -2,8 |
EU (-Anh) | 68,294 | -40,1 | 201,164 | -28,3 |
Hà Lan | 20,761 | -3,3 | 43,400 | -16,3 |
Đức | 9,718 | -35,4 | 30,712 | -24,0 |
Bỉ | 9,423 | -21,5 | 25,519 | -8,2 |
Pháp | 5,098 | -40,3 | 15,879 | -25,6 |
TQ và HK | 66,434 | -25,1 | 150,714 | -36,9 |
Hồng Kông | 5,775 | -57,4 | 25,873 | -35,4 |
Hàn Quốc | 50,704 | -23,8 | 147,862 | -14,6 |
ASEAN | 45,952 | -25,5 | 143,428 | -12,4 |
Anh | 19,183 | 0,9 | 53,595 | -12,9 |
Canada | 17,857 | -0,3 | 49,567 | 2,9 |
Australia | 18,500 | 11,8 | 46,878 | 8,7 |
Nga | 10,993 | 29,4 | 26,051 | 147,6 |
Các TT khác | 52,357 | -10,7 | 158,341 | -11,6 |
TỔNG CỘNG | 549,139 | -19,6 | 1.540,660 | -14,2 |
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu, T1-3/2020 (triệu USD) | ||||
SẢN PHẨM | Tháng 3/2020 (ước) | So với cùng kỳ 2019 (%) | Từ 1/1 – 31/3/2020 (ước) | So với cùng kỳ 2019 (%) |
Tôm các loại (mã HS 03 và 16) | 207,692 | -14,9 | 591,083 | -4,3 |
trong đó: - Tôm chân trắng | 149,010 | -8,4 | 417,216 | 2,1 |
- Tôm sú | 39,891 | -29,3 | 112,948 | -23,2 |
Cá tra (mã HS 03 và 16) | 114,988 | -29,2 | 325,305 | -31,1 |
Cá ngừ (mã HS 03 và 16) | 46,787 | -29,5 | 141,284 | -13,5 |
trong đó: - Cá ngừ mã HS 16 | 17,509 | -36,8 | 58,870 | -13,9 |
- Cá ngừ mã HS 03 | 29,278 | -24,2 | 82,415 | -13,3 |
Cá các loại khác (mã HS 0301 đến 0305 và 1604, trừ cá ngừ, cá tra) | 128,066 | -8,6 | 331,654 | -6,3 |
Nhuyễn thể (mã HS 0307 và 16) | 42,340 | -30,4 | 121,621 | -25,5 |
trong đó: - Mực và bạch tuộc | 35,729 | -31,5 | 101,603 | -28,2 |
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ | 6,454 | -12,6 | 19,355 | -4,1 |
Cua, ghẹ và Giáp xác khác (mã HS 03 và 16) | 9,266 | -3,5 | 29,712 | 19,1 |
TỔNG CỘNG | 549,139 | -19,6 | 1.540,660 | -14,2 |
Chủ đề liên quan
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp