Advertisement

icon icon img
Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

Trump thực sự nghĩ gì về đại dịch COVID-19?

Vĩ mô

03/04/2020 19:31

Câu hỏi hóc búa nhất, và cũng là điều gây nhiều tranh cãi nhất, là liệu có bao nhiêu người phải thiệt mạng chỉ vì sự lãnh đạo của Donald Trump?

Trong 3 năm đầu tại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Donald Trump chủ yếu tập trung vào việc củng cố quyền lực. Và giờ, khi nước Mỹ đang tiến gần tới cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong thế kỷ 21, ông lại từ chối dùng đến quyền lực này. Thay vào đó, khi dịch viêm đường hô hấp cấp do virus Corona chủng mới (SARS-CoV-2), gọi tắt là COVID-19, “xâm lược” nước Mỹ, Trump đã lựa chọn cách phủ nhận và trì hoãn.

Vào những ngày cuối tháng 3/2020, các cố vấn khoa học của Trump đã chứng minh cho ông thấy từ kết quả thu được sau 15 ngày thử nghiệm rằng COVID-19 tại các khu vực thực hiện nghiêm túc việc giãn cách xã hội có tốc độ lây lan chậm hơn hẳn so với những nơi không tuân thủ các biện pháp này.

Ông Trump vẫn tiếp tục chỉ trích báo giới khi họ gây sức ép về những phản ứng chậm chạp của Nhà Trắng
Ông Trump vẫn tiếp tục chỉ trích báo giới khi họ gây sức ép về những phản ứng chậm chạp của Nhà Trắng

Cuộc thử nghiệm cũng chỉ ra rằng nếu người dân thực hiện nghiêm các biện pháp phòng vệ, số người thiệt mạng tại Mỹ vì dịch COVID-19 sẽ “được” kiềm chế ở mức từ 100.000-240.000 người, trong khi các cố vấn chính trị nhấn mạnh rằng những cuộc thăm dò dư luận đều thể hiện mong muốn của người dân về việc gia hạn thời gian giãn cách xã hội.

Và lần đầu tiên Trump có một quyết định nhanh nhạy là kéo dài thời gian cách ly xã hội thêm 30 ngày, cho đến hết tháng 4/2020. Có vẻ như Trump, người vừa vài ngày trước còn tuyên bố rằng sẽ dỡ bỏ toàn bộ các lệnh hạn chế và “mở cửa” trở lại nền kinh tế Mỹ vào Lễ Phục sinh (ngày 12/4) - điều ông khó có thể làm vì các thống đốc bang đều đồng loạt yêu cầu doanh nghiệp đóng cửa và tạm ngừng hoạt động - đã bắt đầu nhận thức nghiêm túc về đại dịch COVID-19.

Tuy nhiên, Trump vẫn tiếp tục chỉ trích báo giới khi họ gây sức ép về những phản ứng chậm chạp của Nhà Trắng. Phủ nhận trách nhiệm về sự chậm chạp và thiếu chuẩn bị trước đại dịch, Trump đã không ít lần cho rằng “không ai biết” dịch bệnh sẽ nghiêm trọng ở mức độ này (trong khi ông từng tuyên bố về việc đã biết trước rằng một đại dịch sắp bùng phát).

Như thường lệ, Trump đổ lỗi cho người tiền nhiệm Barack Obama. Thực tế, ngay từ đầu tháng 1/2020, các cơ quan tình báo đã cảnh báo nhà lãnh đạo Mỹ về nguy cơ lây nhiễm SARS-CoV-2.

Bất chấp những nỗ lực không ngừng nghỉ suốt thời gian ấy, các quan chức chính quyền không thể thuyết phục Trump về cuộc khủng hoảng sắp tới gần. Trước công luận, Trump phủ nhận sự hiện dịch của dịch COVID-19 và những hệ quả của nó, cho rằng thậm chí tỷ lệ tử vong của dịch cúm mùa còn cao hơn của đại dịch này.

Một người chạy trong mặt nạ mặt chạy qua bức tranh tường ở Venice, California, cho thấy một cặp đôi đeo mặt nạ hôn nhau. Ảnh: EPA-EFE
Một người chạy trong mặt nạ mặt chạy qua bức tranh tường ở Venice, California, cho thấy một cặp đôi đeo mặt nạ hôn nhau. Ảnh: EPA-EFE

Khi có những thực tế khiến ông phải thay đổi nhận thức, vào ngày 24/2, Trump lại trấn an dư luận rằng “Mỹ đang kiểm soát tốt dịch COVID-19”, và rồi tới ngày 31/3 thừa nhận ông đã đưa ra những bình luận quá lạc quan vì “muốn người dân hy vọng”. 

Theo những nguồn tin báo chí, Trump chỉ tỏ ý coi thường dịch COVID-19 trong các phát biểu trước công chúng. Dường như Trump không xứng là người lãnh đạo nước Mỹ ở thời điểm này. Việc Trump không thừa nhận thực tế đã đẩy các bác sỹ và y tá tới chỗ phải đương đầu với dịch bệnh mà không hề có được những sự bảo vệ đầy đủ nhất, và kết quả là đã có những “chiến sỹ tuyến đầu” thiệt mạng.

Hơn thế nữa, việc thiếu hụt nghiêm trọng các bộ thử nghiệm khiến các nhà hoạch định chính sách không thể nắm rõ địa điểm và con số thực sự các ca lây nhiễm. “Nhu cầu” được tán dương của Trump đã khiến ông đưa ra những tuyên bố đầy vô lý, chẳng hạn như số trường hợp được xét nghiệm SARS-CoV-2 tại Mỹ “cao hơn nhiều” so với các quốc gia khác. 

Thái độ này của Trump còn ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa chính quyền liên bang và các thống đốc. Trump đã lệ thuộc quá nhiều và quá lâu vào các cố vấn kinh tế, những người suốt nhiều tuần qua vẫn thuyết phục ông nên đặt lợi ích kinh tế lên trên vấn đề sức khỏe toàn dân.

Mãi cho tới ngày 27/3, Trump mới thực thi Đạo luật Sản xuất Quốc phòng, và yêu cầu General Motors sản xuất máy thở, thiết bị đặc biệt cần thiết trong cuộc chiến chống COVID-19. Phản ứng của chính quyền Trump dường như cũng bao gồm màu sắc chính trị với những ưu ái nhất định.

Bang Florida của Thống đốc Ron DeSantis, thành viên đảng Cộng hòa, được nhận nhiều viện trợ liên bang hơn hẳn những bang có người đứng đầu thuộc đảng Dân chủ, vốn có mâu thuẫn với Trump.

  Một khách hàng đeo mặt nạ bảo hộ và găng tay, rời đi, mua táo tại chợ nông sản ở San Francisco vào thứ Tư. Ảnh: Bloomberg

Một khách hàng đeo mặt nạ bảo hộ và găng tay, rời đi, mua táo tại chợ nông sản ở San Francisco vào thứ Tư. Ảnh: Bloomberg

Có thể nói, hệ thống liên bang Mỹ vừa là trở ngại, vừa là cứu cánh cho cuộc chiến chống SARS-CoV-2 của Trump khi một mặt chúng dẫn đến những mâu thuẫn chính sách, và mặt khác lại trở thành tấm bình phong cho sự yếu kém của nhà lãnh đạo phi truyền thống này.

Trump vẫn nhất quyết không tuyên bố COVID-19 là cuộc khủng hoảng toàn quốc, khiến các bang phải tự có cách phản ứng riêng và thậm chí là cạnh tranh nhau để có được các thiết bị y tế khẩn cấp. Điều này có lẽ bắt nguồn từ những gì mà Trump từng tuyên bố trong một cuộc họp báo hồi giữa tháng 3, rằng ông “không chịu trách nhiệm” về việc thiếu hụt khẩu trang.

Hay nói cách khác là đẩy quả bóng trách nhiệm về phía các thống đốc bang. Kiểu hành xử đổ lỗi này dường như đã trở thành “nguyên tắc” và thông lệ của Trump cũng như giới lãnh đạo đảng Cộng hòa. 

Người ta có thể sẽ không bao giờ biết được rằng Trump thực sự nghĩ gì về đại dịch COVID-19. Điều duy nhất rõ ràng lúc này là con số lây nhiễm SARS-CoV-2 thực sự đã lên tới mức báo động khi số người Mỹ thiệt mạng vì loại virus này tính đến chiều 3/4 (giờ Việt Nam) đã vượt quá mốc 6.000 người và gần 250.000 ca lây nhiễm.

Trên thế giới, hơn 1 triệu người đã mắc bệnh, trong khi những gì nhân loại biết về SARS-CoV-2 phần lớn vẫn chỉ là các giả thuyết. Trên mặt trận kinh tế, trong tuần vừa qua, đã có 6,6 triệu người Mỹ mất việc làm.

Một cuộc khủng hoảng kéo dài và trầm trọng đang ở rất gần. Khi khủng hoảng qua đi, sẽ có rất nhiều nghiên cứu về những gì đã diễn ra cùng nguyên nhân của nó. Tuy nhiên, câu hỏi hóc búa nhất, và cũng là điều sẽ gây nhiều tranh cãi nhất, là liệu có bao nhiêu người đã phải thiệt mạng chỉ vì sự lãnh đạo của Donald Trump?

Đường phố New York vắng tanh giữa dịch COVID-19

Thống kê tình hình dịch bệnh COVID-19

VIỆT NAM

1405

CA NHIỄM

35

CA TỬ VONG

1252

CA PHỤC HỒI

THẾ GIỚI

74.034.352

CA NHIỄM

1.646.692

CA TỬ VONG

52.025.064

CA PHỤC HỒI

Nơi khởi bệnh Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
Đà Nẵng 412 31 365
Hà Nội 174 0 167
Hồ Chí Minh 144 0 123
Quảng Nam 107 3 101
Bà Rịa - Vũng Tàu 69 0 65
Khánh Hòa 64 0 29
Bạc Liêu 50 0 48
Thái Bình 38 0 35
Hải Dương 32 0 29
Ninh Bình 32 0 28
Đồng Tháp 24 0 21
Hưng Yên 23 0 22
Thanh Hóa 21 0 19
Quảng Ninh 20 0 20
Bắc Giang 20 0 20
Hoà Bình 19 0 19
Vĩnh Phúc 19 0 19
Nam Định 15 0 15
Bình Dương 12 0 12
Cần Thơ 10 0 10
Bình Thuận 9 0 9
Bắc Ninh 8 0 8
Đồng Nai 7 0 4
Quảng Ngãi 7 0 7
Hà Nam 7 0 5
Quảng Trị 7 1 6
Tây Ninh 7 0 7
Trà Vinh 5 0 5
Lạng Sơn 4 0 4
Hà Tĩnh 4 0 4
Hải Phòng 3 0 3
Ninh Thuận 3 0 2
Thanh Hoá 3 0 2
Phú Thọ 3 0 3
Đắk Lắk 3 0 3
Thừa Thiên Huế 2 0 2
Lào Cai 2 0 2
Thái Nguyên 1 0 1
Cà Mau 1 0 1
Kiên Giang 1 0 1
Bến Tre 1 0 1
Lai Châu 1 0 1
Hà Giang 1 0 1
Quốc Gia Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
United States 17.159.794 311.316 10.015.012
India 9.933.997 144.144 9.456.552
Brazil 6.974.258 182.854 6.067.862
Russia 2.734.454 48.564 2.176.100
France 2.391.447 59.072 179.087
Turkey 1.898.447 16.881 1.661.191
Italy 1.888.144 66.537 1.175.901
United Kingdom 1.888.116 64.908 0
Spain 1.771.488 48.401 0
Argentina 1.510.203 41.204 1.344.300
Colombia 1.444.646 39.356 1.328.430
Germany 1.388.184 23.916 1.025.000
Mexico 1.267.202 115.099 938.089
Poland 1.159.901 23.914 892.650
Iran 1.131.077 52.883 844.430
Peru 987.675 36.817 922.314
Ukraine 919.704 15.744 535.417
South Africa 873.679 23.661 764.977
Netherlands 639.746 10.246 0
Indonesia 636.154 19.248 521.984
Belgium 611.422 18.178 41.973
Czech Republic 594.148 9.882 516.786
Iraq 578.916 12.636 513.405
Chile 576.731 15.959 549.852
Romania 571.749 13.862 469.499
Bangladesh 495.841 7.156 429.351
Canada 477.353 13.702 388.018
Philippines 452.988 8.833 419.282
Pakistan 445.977 9.010 388.598
Morocco 403.619 6.711 362.911
Switzerland 394.453 6.316 311.500
Israel 363.287 3.030 340.145
Saudi Arabia 360.335 6.080 351.192
Portugal 358.296 5.815 283.719
Sweden 348.585 7.802 0
Austria 330.343 4.764 291.042
Hungary 288.567 7.381 83.940
Serbia 282.601 2.482 31.536
Jordan 267.585 3.465 230.274
Nepal 250.916 1.743 238.569
Ecuador 202.356 13.896 177.951
Georgia 198.387 1.922 167.281
Panama 196.987 3.411 164.855
United Arab Emirates 188.545 626 165.749
Azerbaijan 187.336 2.050 122.859
Bulgaria 184.287 6.005 87.935
Japan 184.042 2.688 155.547
Croatia 183.045 2.870 157.773
Belarus 165.897 1.291 143.373
Dominican Republic 156.585 2.372 121.988
Costa Rica 154.096 1.956 121.031
Armenia 150.218 2.556 128.694
Lebanon 148.877 1.223 104.207
Bolivia 147.716 9.026 126.720
Kuwait 146.971 913 142.909
Kazakhstan 143.735 2.147 128.218
Qatar 141.417 242 139.042
Slovakia 139.088 1.309 101.584
Guatemala 130.828 4.510 119.288
Moldova 130.329 2.650 112.677
Greece 127.557 3.870 9.989
Oman 126.835 1.480 118.736
Egypt 122.609 6.966 105.450
Denmark 119.779 975 83.801
Ethiopia 117.542 1.813 96.307
Palestine 115.606 1.048 90.952
Honduras 114.943 3.001 52.392
Tunisia 113.241 3.956 86.801
Myanmar 111.900 2.346 90.453
Venezuela 108.480 965 103.271
Bosnia Herzegovina 103.232 3.511 68.245
Slovenia 100.389 2.190 77.453
Lithuania 99.869 907 43.379
Paraguay 95.353 1.991 67.953
Algeria 93.065 2.623 61.307
Kenya 92.853 1.614 74.403
Libya 92.577 1.324 62.720
Bahrain 89.444 349 87.490
Malaysia 87.913 429 72.733
China 86.770 4.634 81.821
Kyrgyzstan 78.151 1.317 71.270
Ireland 76.776 2.134 23.364
Macedonia 75.597 2.194 51.493
Uzbekistan 75.396 612 72.661
Nigeria 74.132 1.200 66.494
Singapore 58.353 29 58.238
Ghana 53.386 327 52.048
Albania 50.637 1.040 26.381
Afghanistan 49.970 2.017 38.648
South Korea 45.442 612 32.947
El Salvador 42.397 1.219 38.481
Luxembourg 42.250 418 33.486
Montenegro 42.148 597 32.097
Norway 42.077 402 34.782
Sri Lanka 34.447 157 25.652
Finland 31.870 472 22.500
Uganda 28.733 225 10.070
Australia 28.056 908 25.690
Latvia 27.495 382 18.153
Cameroon 25.359 445 23.851
Sudan 21.864 1.372 12.667
Ivory Coast 21.775 133 21.335
Estonia 19.271 160 12.117
Zambia 18.456 369 17.635
Madagascar 17.587 259 16.992
Senegal 17.336 352 16.349
Namibia 17.276 164 15.196
Mozambique 17.143 145 15.241
Angola 16.362 372 8.990
French Polynesia 15.870 97 4.842
Cyprus 15.789 84 2.057
Congo [DRC] 14.930 364 12.859
Guinea 13.474 80 12.727
Maldives 13.392 48 12.760
Botswana 12.873 38 10.456
Tajikistan 12.815 89 12.253
French Guiana 12.026 71 9.995
Jamaica 11.907 276 8.371
Zimbabwe 11.522 310 9.599
Mauritania 11.431 236 8.248
Malta 11.415 180 9.516
Cape Verde 11.395 110 11.055
Uruguay 10.418 98 6.895
Cuba 9.671 137 8.658
Haiti 9.597 234 8.280
Belize 9.511 211 4.514
Syria 9.452 543 4.494
Gabon 9.351 63 9.204
Réunion 8.534 42 8.037
Guadeloupe 8.524 154 2.242
Hong Kong 7.804 123 6.439
Bahamas 7.698 164 6.081
Andorra 7.382 79 6.706
Swaziland 6.912 132 6.476
Trinidad and Tobago 6.900 123 6.204
Rwanda 6.832 57 6.036
Democratic Republic Congo Brazzaville 6.200 100 4.988
Malawi 6.091 187 5.661
Guyana 5.973 156 5.144
Nicaragua 5.887 162 4.225
Mali 5.878 205 3.697
Djibouti 5.759 61 5.628
Mayotte 5.616 53 2.964
Iceland 5.578 28 5.421
Martinique 5.575 42 98
Suriname 5.381 117 5.231
Equatorial Guinea 5.195 85 5.061
Aruba 5.079 46 4.911
Central African Republic 4.936 63 1.924
Somalia 4.579 121 3.529
Burkina Faso 4.300 73 2.940
Thailand 4.261 60 3.977
Gambia 3.785 123 3.653
Curaçao 3.699 11 1.889
Togo 3.295 66 2.821
South Sudan 3.222 62 3.043
Benin 3.090 44 2.972
Sierra Leone 2.451 75 1.853
Guinea-Bissau 2.447 44 2.378
Lesotho 2.365 46 1.423
Niger 2.361 82 1.329
Channel Islands 2.192 48 1.339
New Zealand 2.100 25 2.032
Yemen 2.085 606 1.384
San Marino 2.025 54 1.694
Chad 1.784 102 1.611
Liberia 1.773 83 1.406
Liechtenstein 1.600 21 1.377
Vietnam 1.405 35 1.252
Sint Maarten 1.269 26 1.111
Gibraltar 1.125 6 1.046
Sao Tome and Principe 1.010 17 952
Mongolia 918 0 384
Saint Martin 801 12 675
Turks and Caicos 771 6 741
Taiwan 749 7 612
Burundi 735 1 640
Papua New Guinea 729 8 601
Diamond Princess 712 13 699
Eritrea 711 0 564
Monaco 678 3 609
Comoros 633 7 606
Faeroe Islands 530 0 506
Mauritius 524 10 489
Tanzania 509 21 183
Bermuda 467 9 250
Bhutan 439 0 408
Isle of Man 373 25 344
Cambodia 362 0 319
Cayman Islands 302 2 277
Barbados 297 7 273
Saint Lucia 278 4 240
Seychelles 202 0 184
Caribbean Netherlands 177 3 166
St. Barth 162 1 127
Brunei 152 3 148
Antigua and Barbuda 148 5 138
Saint Vincent and the Grenadines 98 0 81
Dominica 88 0 83
Grenada 85 0 41
British Virgin Islands 76 1 72
Fiji 46 2 38
Macau 46 0 46
Laos 41 0 36
New Caledonia 37 0 35
Timor-Leste 31 0 30
Saint Kitts and Nevis 28 0 23
Vatican City 27 0 15
Falkland Islands 23 0 17
Greenland 19 0 18
Solomon Islands 17 0 5
Saint Pierre Miquelon 14 0 14
Montserrat 13 1 12
Western Sahara 10 1 8
Anguilla 10 0 4
MS Zaandam 9 2 7
Marshall Islands 4 0 4
Wallis and Futuna 3 0 1
Samoa 2 0 2
Vanuatu 1 0 1
Dữ liệu trên được thống kê theo nguồn https://corona.kompa.ai/, https://ncov.moh.gov.vn/
CHẤN HƯNG
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement