14/11/2019 15:56
Phong cách kiến trúc cổ đại nào còn tồn tại đến nay?
Trong lịch sử kiến trúc, thật thú vị khi biết được các phong trào lớn và những phong cách phổ biến nổi lên theo thời gian và tồn tại đến bây giờ.
Di tích Parthenon, Acropolis của Athens, Hy Lạp. Kiến trúc Cổ điển bắt nguồn ở Hy Lạp cổ đại giữa thế kỷ thứ 7 và thứ 4 trước Công nguyên. Nó được biết đến với các ngôi đền tôn giáo lớn được xây dựng bằng đá, được thiết kế từ các nguyên tắc về trật tự, đối xứng, hình học và phối cảnh. Một đặc điểm đáng chú ý về tính biểu cảm của nó là các nguyên tắc của “các mệnh lệnh kiến trúc”: Doric, Ionic và Corinthian. Công trình vĩ đại nhất của kiến trúc Cổ điển là Parthenon. Được xây dựng tại Acropolis, Athens vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Parthenon thể hiện những đặc điểm nổi bật của giai đoạn này: một khối công trình được xây dựng trên một nền chống đỡ các cột và trung tâm của nó. Ảnh: Kristoffer Trolle |
Nhà thờ Santiago de Compostela. Được phát triển ở châu Âu vào giữa thế kỷ thứ VI và thứ IX, phong cách kiến trúc này có mối tương quan tuyệt vời với bối cảnh lịch sử của nó. Trong giai đoạn khi các nước châu Âu xảy ra chiến tranh và lo lắng về việc bảo vệ chống lại các cuộc xâm lược; các tòa nhà, lấy cảm hứng từ Cộng hòa La Mã cổ đại, đặc trưng bởi các bức tường lớn chịu lực và hở tối thiểu trong vòm hình bán nguyệt. Hình mẫu chính của nó là các nhà thờ được xây dựng trong thời kỳ này, và một trong những công trình quan trọng nhất của nó là Nhà thờ Santiago de Compostela ở Tây Ban Nha được xây dựng trong các cuộc Thập tự chinh, và nó là công trình đặc sắc nhất theo phong cách này. Ảnh: Luis Miguel Bugallo Sánchez. |
Reims Cathedral. Những gì chúng ta biết là kiến trúc Gothic ban đầu được đặt tên là Opus Francigenum, hoặc “công trình Pháp”, vì nó có nguồn gốc từ thời Trung cổ ở Pháp, giữa những năm 900 và 1300. Chỉ trong thời gian Khai sáng, cái tên “Gothic” về việc tham khảo kiến trúc hoành trángvà vĩ đại được tạo ra trong giai đoạn đó. Các tác phẩm Gothic phần lớn có liên quan đến các tòa nhà giáo hội – nhà thờ với mái vòm và vòm hầm. Hầu hết các tòa nhà Gothic được coi là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận, chẳng hạn như Nhà thờ Đức Bà và Nhà thờ Reims. Ảnh: Johan Bakker. |
Nhà thờ Gesù, Rome. Bắt đầu từ thế kỷ 16 dưới chế độ quân chủ chủ nghĩa ở châu Âu, kiến trúc Baroque có thể được tìm thấy trong các tòa nhà mang yếu tố tôn giáo. Sử dụng các đồ trang trí và các yếu tố thiết lập một cảm giác ấn tượng – đặc biệt là sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối – Kiến trúc Baroque đã đem các yếu tố cấu trúc làm nền tảng để trang trí. Một trong những ví dụ đầu tiên của phong cách này là Nhà thờ Gesù ở Rome, nơi tự hào có mặt tiền Baroque thực sự đầu tiên. Ảnh: Alessio Damato |
Altes Museum, Berlim. Từ thế kỷ 18 trở đi, kiến trúc Tân cổ điển tìm cách làm sống lại các tòa nhà Hy Lạp và La Mã cổ điển. Đặc trưng của nó liên quan chặt chẽ đến bối cảnh kinh tế và xã hội, Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu, và thời kỳ học sinh trung lưu bắt đầu truyền thống Grand Tour – du lịch vòng quanh thế giới và tiếp xúc với các tác phẩm cổ đại. Sự hồi sinh của văn hóa châu Âu mang lại một phong cách kiến trúc hướng đến đối xứng hợp lý như là một phản ứng với kiến trúc Baroque. Phong trào này tiếp tục cho đến thế kỷ 19 và được thể hiện ở nhiều quốc gia. Ảnh: Avda |
Nhà ga Grand Central, New York. Phong cách học thuật này bắt nguồn từ trường Mỹ thuật ở Paris vào giữa những năm 1830. Nó đã thiết lập một ngôn ngữ được giới thiệu đến các giai đoạn khác, chẳng hạn như Neoclassicism Pháp, kiến trúc Gothic, và Renaissance, tuy nhiên, nó cũng sử dụng các vật liệu hiện đại như thủy tinh và sắt. Mặc dù nó nổi lên ở Pháp, phong cách này ảnh hưởng đến kiến trúc Mỹ và có vai trò như là một tham chiếu đến kiến trúc sư như Louis Sullivan – “cha đẻ của những tòa nhà chọc trời.” Các tòa nhà theo phong trào này thường trang trí điêu khắc pha trộn với các đường nét hiện đại như Grand Palais ở Paris, hay Grand Central Terminal ở New York. Ảnh: Eric Baetscher |
Lối vào ga tàu điện ngầm Porte Dauphine ở Paris. Art Nouveau ban đầu được coi như là một hướng dẫn cho một số ngành từ kiến trúc đến hội họa, và thiết kế nội thất hay typography. Như một sự phản đối tới phong cách chiết trung châu Âu, Art Nouveau thể hiện bản thân trong kiến trúc bằng các yếu tố trang trí: các tòa nhà, đầy những đường cong và uốn éo lấy cảm hứng từ các hình dạng hữu cơ như thực vật, hoa và động vật, cả về thiết kế và sử dụng màu sắc. Các tòa nhà đầu tiên của nó được thiết kế bởi kiến trúc sư người Bỉ Victor Horta, tuy nhiên, những hình mẫu điển hình nhất đến từ tác giả của người Pháp Hector Guimard. Ảnh: Moonik |
Nhà hát des Champs-Élysées, Paris. Art Deco xuất hiện ở Pháp ngay trước Chiến tranh Thế giới I, và giống như Art Nouveau, chịu ảnh hưởng đến một số lĩnh vực nghệ thuật và thiết kế. Pha trộn giữa thiết kế hiện đại, các yếu tố thủ công, và các vật liệu sang trọng, phong trào này thể hiện một niềm tin lớn trong tiến bộ xã hội và công nghệ ở châu lục này. Auguste Perret, một kiến trúc sư người Pháp và là người tiên phong trong việc sử dụng bê tông cốt thép, chịu trách nhiệm thiết kế một trong những cấu trúc Art Deco đầu tiên. Nhà hát Champs-Elysées của Perret (1913) đã kết hợp các đặc điểm của phong trào và đánh dấu sự ra đi của ngôn ngữ Tân nghệ thuật được đề xuất trước đây. Ảnh: Coldcreation |
Bauhaus Dessau. Bauhaus được sinh ra tại trường thiết kế đầu tiên trên thế giới vào cuối thế kỷ 20. Nó xuất hiện trong một bài diễn văn kéo dài từ thiết kế đồ nội thất đến nghệ thuật nhựa và tư thế tiên phong ở Đức. Mối quan hệ giữa sản xuất công nghiệp và thiết kế sản phẩm là rất quan trọng đối với các đề xuất kiến trúc của trường, áp dụng lập trường hợp lý hóa cao về quy trình thiết kế. Một trong những người sáng lập, Walter Gropius, đã thực hiện các phương pháp dạy học cách mạng và áp dụng các nguyên tắc này trong các tác phẩm hiện đại và chức năng của mình. Ảnh: Thomas Lewandovski |
Weissenhof-Siedlung House, Stuttgart, được thiết kế bởi Le Corbusier. Chủ nghĩa hiện đại được sinh ra trong nửa đầu thế kỷ 20. Có thể nói nó bắt đầu ở Đức với Bauhaus, hoặc Pháp với Le Corbusier, hoặc Mỹ với Frank Lloyd Wright. Tuy nhiên, sự đóng góp của Le Corbusier đối với sự hiểu biết về kiến trúc hiện đại là đáng chú ý nhất, đặc biệt là khả năng tổng hợp các giới luật mà ông đã áp dụng trong các tác phẩm, thiết kế và diễn ngôn của mình Một ví dụ là bản tuyên ngôn năm 1926 của ông có tên “Năm đặc điểm của kiến trúc mới”, hay còn được gọi là Năm đặc điểm của kiến trúc hiện đại. Ảnh: Andreas Praefcke |
Advertisement
Advertisement