25/01/2019 21:21
Lễ tiễn ông Công ông Táo ở miền Bắc, Trung và miền Nam khác nhau thế nào?
Cứ đến ngày 23 tháng Chạp hàng năm là người dân Việt Nam lại làm lễ cúng ông Công ông Táo. Song mâm cỗ, lễ cúng còn tùy thuộc vào vùng miền.
1. Miền Bắc
Ở miền Bắc, có lẽ nét đặc trưng văn hóa khác biệt nhất với 2 miền còn lại trong lễ cúng ông Công ông Táo này chính là việc dùng cá chép làm đồ cúng lễ. Cá chép ở đây có thể là cá chép sống, cũng có thể là cá chép giấy, tùy theo từng gia đình mà có điểm khác biệt.
Người dân thường làm lễ cúng ông Táo từ khá sớm, không nhất thiết phải vào đúng ngày 23 tháng Chạp mà có thể bắt đầu từ ngày 20, muộn nhất là trưa ngày 23. Người miền Bắc ít nơi làm lễ cúng Táo quân vào chiều tối 23 tháng Chạp
Bởi người ta quan niệm rằng từ 12h trưa 23, các Táo phải bay về thiên đình làm lễ chầu với Ngọc Hoàng, không còn ở dương gian để nhận lễ được nữa.
Trong mâm cỗ cúng Táo quân của người miền Bắc không thể thiếu bộ áo mũ các Táo và cá chép. Tùy theo từng địa phương, từng gia đình mà số lượng cá có sự sai khác. Có nhà chỉ dùng 1 con, trong khi có nhà lại cúng tới 3 con cá chép vàng.
Cá chép còn sống được đặt bên cạnh mâm lễ vật, sau khi làm lễ xong sẽ được gia chủ đem thả phóng sinh ở nơi sông suối, ao hồ với ngụ ý để cá chép hóa rồng, làm phương tiện đưa các Táo về trời. Ngoài ra, việc phóng sinh cá còn thể hiện tấm lòng nhân đức, muốn tích đức hành thiện của gia chủ.
Mâm cỗ cúng Táo ở miền Bắc cầu kì nhất trong ba miền với đủ các món ăn truyền thống như xôi, gà, giò chả, canh măng, nem… Đặc biệt, trong mâm cỗ cúng Táo ở nhiều địa phương vùng Bắc Bộ thường sẽ có xôi chè, thường là chè bà cốt, nấu bằng nếp cái, xôi vò, đường nâu và gừng.
Chè có vị ngọt ấm, tượng trưng cho mong muốn các Táo về trời nói giúp gia chủ những điều tốt đẹp, ngọt ngào với Ngọc Hoàng.
Cúng bái, đốt vàng mã, thả cá xong xuôi, người dân sẽ thay 3 ông đầu rau (kiềng, lò bếp) trong bếp bằng cách thả xuống ao, hồ, sông, suối rồi thay bộ mới vào bếp. Việc dọn bàn thờ cũng được tiến hành ngay trong ngày 23 tháng Chạp hoặc vài ngày sau đó, miễn là trước lễ Giao thừa.
2. Miền Trung
Có thể nói, người dân miền Trung cúng ông Táo rất cầu kì và trọng thể. Khác với miền Bắc cúng Táo cá chép để về trời, người miền Trung thường dâng lên một con ngựa bằng giấy, có yên cương đầy đủ. Người miền Trung thường không cúng áo mũ cho các Táo như người miền Bắc.
Ông Táo trong văn hóa Huế và một số tỉnh lân cận cũng có vị trí cực kì quan trọng khi mà người dân vừa thờ ông Táo trên Trang Ông, vừa lập bàn thờ nhỏ ở bếp.
Cứ mỗi 30, mùng 1, ngày 14 và ngày rằm hàng tháng, gia chủ sẽ dâng lễ cúng ông Táo với hoa quả, nhang đèn. Đặc biệt, người phụ nữ miền Trung nết na hiền thảo luôn được căn dặn phải giữ cho bếp núc sạch sẽ, gọn gàng và yên tĩnh.
Chính vì thế mà lễ tiễn ông Táo về trời ở vùng miền này ngày 23 tháng Chạp cũng vô cùng trọng thể. Dân Huế thường đốt vàng mã và dâng cúng nhiều lễ vật cho các Táo. Ông Táo cũ được tiễn khỏi bàn thờ bếp và đặt bên cạnh các am miếu hoặc gốc cổ thụ cạnh ngã ba đường, gia chủ làm lễ rước ông Táo mới về nhà. Tượng ba ông Táo mới cũng được rước lên bàn thờ để gia chủ dễ bề hương khói.
3. Miền Nam
Đây có lẽ là nét đặc trưng trong lễ cúng ông Công ông Táo ở miền Nam. Người miền Nam thường cúng Táo quân vào buổi đêm, trong khoảng từ 20h đến 23h. Khác với người miền Bắc cho rằng các Táo phải về trời từ 12h trưa ngày 23 tháng Chạp, người dân miền Nam lại quan niệm khác.
Lễ cúng ông Táo chỉ được thực hiện vào thời điểm cuối ngày, sau khi cả gia đình đã dùng xong bữa tối, không cần phải dùng đến bếp núc để nấu nướng, phiền hà đến các Táo nữa thì mới có thể làm lễ tiễn Táo về chầu trời.
Mâm cỗ cúng ông Công ông Táo ngày 23 của người miền Nam khá đơn giản, gồm có bình hoa tươi, đĩa kẹo “thèo lèo” làm từ mè đen và đậu phộng, nhang đèn, 3 chung nước nhỏ và đặc biệt là bộ “cò bay, ngựa chạy” – hình giấy con cò và con ngựa dùng để hóa sau khi cúng lễ với mong muốn tiễn Táo về chầu trời nhanh hơn.
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp