12/10/2021 07:07
Làm thế nào để 'làm sạch' chuỗi cung ứng cao su của Việt Nam?
Ngành cao su Việt Nam đang có nguy cơ suy yếu vì sự thiếu minh bạch. Trong khi đó, người mua toàn cầu ngày càng yêu cầu khắt khe hơn về nguyên liệu, buộc phải đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức và pháp luật.
Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về diện tích đất trồng cao su, khoảng 926.000 ha vào năm 2020, nhưng đứng thứ ba toàn cầu về sản lượng, sản xuất khoảng 1,22 triệu tấn vào năm 2020, theo một báo năm ngoái của Forest Trends.
Theo đó, xuất khẩu nguyên liệu cao su tự nhiên (như khối cao su, mủ cô đặc,...) và các sản phẩm cao su (như lốp xe, vật tư y tế, đế giày,...) đã tăng vọt từ 2,9 tỷ USD vào năm 2015 lên gần 5,5 tỷ USD vào năm 2020, theo báo cáo trên.
Tuy nhiên, các công ty lớn như Nike và Adidas dần ưu tiên tìm nguồn cung ứng cao su từ các nhà sản xuất được chứng nhận bởi Hội đồng Quản lý Rừng (FSC). Đây được xem là tiêu chuẩn vàng của ngành trong việc đáp ứng các tiêu chí pháp lý và môi trường.
Đáng buồn, Việt Nam không có nhà cung cấp nào được chứng nhận FSC.
Phuc Xuan To, chuyên gia phân tích chính sách cấp cao của Forest Trends, cho rằng phần lớn ngành cao su của Việt Nam khó có khả năng đạt cấp FSC, vì chuỗi cung ứng "lộn xộn", liên quan đến khoảng 265.000 chủ sở hữu nhỏ và hàng trăm công ty.
Hơn nữa, cao su chưa chế biến nhập khẩu từ Campuchia và Lào lẫn lộn với cao su sản xuất trong nước. Điều này đặt ra câu hỏi về việc quản lý đồn điền cao su ở các nước láng giềng Việt Nam, đồng thời liên quan đến tranh chấp đất đai và khai thác gỗ.
"Chuỗi cung ứng đi qua rất nhiều bên liên quan và trong nhiều trường hợp không thể truy tìm được nguồn gốc", ông Phuc Xuan To nói.
Phần lớn cao su nhập khẩu là từ đồn điền ở Campuchia và Lào. Các đồn điền này do công ty Việt Nam khai thác.
Trước đây từng có một sự kiện nổi bật trong ngành, Tập đoàn Cao su Việt Nam, đã bị thu hồi chứng nhận FSC cho các hoạt động ở Campuchia vào năm 2015, vì di dời dân làng ra khỏi đất của họ.
Số liệu thống kê không khớp tiếp tục làm mờ triển vọng ngành cao su. Số liệu của cơ quan hải quan Việt Nam cho thấy trong nửa đầu năm 2021, gần 392.000 tấn cao su chưa chế biến được nhập khẩu từ Campuchia. Con số này cao gấp 1,5 lần tổng lượng nhập khẩu năm 2020 và gần 50 lần so với năm 2019.
Tuy nhiên, số liệu hải quan Campuchia đưa ra không khớp. Theo đó, tổng xuất khẩu cao su của nước này chỉ đạt 102.800 tấn trong nửa đầu năm nay.
Jean-Christophe Diepart, một nhà nghiên cứu nông nghiệp tại Campuchia, cho biết hầu hết cao su sản xuất ở Campuchia được chuyển đến Việt Nam dưới dạng chưa qua chế biến và qua các kênh không chính thức.
Ông cho biết, giao dịch này đã tăng sau khi giá cao su giảm vào năm 2012, do nó được tiến hành thông qua những người trung gian, đưa ra mức giá cao hơn một chút cho nguyên liệu thô.
"Vẫn có một số kênh chế biến mủ địa phương chính thức ở Campuchia xuất khẩu qua đường chính ngạch sang Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Malaysia", ông Diepart nói. "Nhưng phần lớn cao su được xuất khẩu sang Việt Nam qua kênh không chính thức".
Đối với Campuchia, thương mại phi chính thức có nghĩa là các nhà chế biến trong nước thiếu mủ cao su, do đó không thể hoạt động hết công suất.
Trong khi đó, các thương hiệu và người mua toàn cầu đang kêu gọi Việt Nam và các nước khác tăng cường tính minh bạch trong chuỗi cung ứng cao su. Họ nói rằng họ sẵn sàng trả tiền cho sự minh bạch.
Công ty cao su Yulex của Mỹ là nguồn cung cấp cho một số thương hiệu may mặc sản xuất tại Việt Nam. Tuy nhiên, công ty này sử dụng cao su nhập khẩu từ các đồn điền được FSC phê duyệt ở Sri Lanka hoặc Guatemala.
Người sáng lập kiêm CEO của Yulex, Jeff Martin, cho biết công ty rất mong muốn được làm việc với các nhà sản xuất tại Việt Nam mà có thể được cấp chứng chỉ FSC.
Ông Martin nói: “Chúng tôi có thể cung cấp cho họ một thỏa thuận cung cấp, để chúng tôi có thể thương lượng giá cả sẽ cho thấy mức phí bảo hiểm đáng kể so với những gì họ sẽ nhận được khi bán FSC trên thị trường, hoặc chỉ bán cao su hàng hóa trên thị trường”.
Stefano Savi, Giám đốc Nền tảng Toàn cầu về Cao su tự nhiên bền vững, với các thành viên chiếm 50% khối lượng cao su tự nhiên toàn cầu, cho biết nhóm muốn thấy người mua thực hiện các hành động để giúp các nhà sản xuất đạt được các tiêu chuẩn cao hơn.
Ông nói: “Chúng ta cần đưa ra các biện pháp khuyến khích phù hợp".
Trong một dấu hiệu thay đổi khác, vào tháng 8, Tập đoàn cao su Sumitomo khổng lồ của Nhật Bản đã ban hành Chính sách cao su thiên nhiên bền vững. Theo đó cam kết bắt đầu kiểm toán bên thứ ba đối với các nhà cung cấp trong các lĩnh vực như môi trường, thực tiễn lao động và nhân quyền.
Tuy nhiên, những nỗ lực để làm "sạch" chuỗi cung ứng của Việt Nam đang vấp phải sự cản trở, ông Xuan To của Forest Trends cho biết.
Một phần nguyên nhân là do các công ty nhà nước đang thống trị lĩnh vực này, nhờ kiểm soát được trữ lượng đất đai rộng lớn. Hơn nữa, một nửa cao su của Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc, nơi không có rào cản lớn về việc tuân thủ các tiêu chuẩn.
"Các công ty nhà nước tin rằng họ vẫn có thể bám vào thị trường Trung Quốc. Họ đúng. Nhưng điều này có thể thay đổi trong tương lai. Vì vậy, việc bỏ tất cả trứng vào cùng một giỏ là rất rủi ro", ông Xuan To nói.
"Nếu những công ty này không bắt đầu thay đổi, có thể chúng sẽ không còn tồn tại trong tương lai".
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp