09/09/2019 06:54
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 2 chiều giữa Việt Nam và Australia tăng 6,4%
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 2 chiều giữa Việt Nam và Australia 7 tháng đầu năm 2019 tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2018, đạt 4,54 tỷ USD.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất nhập khẩuhàng hóa 2 chiều giữa Việt Nam và Australia 7 tháng đầu năm 2019 tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2018, đạt 4,54 tỷ USD.
Trong đó,xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này giảm 15,3%, đạt 1,93 tỷ USD, nhưng nhập khẩu lại tăng mạnh 31,5%, đạt 2,61 tỷ USD. Như vậy, 7 tháng đầu năm 2019 Việt Nam nhập siêu từ Australia 676,09 triệu USD, trong khi cùng kỳ năm 2018 Việt Nam xuất siêu sang Australia 300,14 triệu USD.
Trong 7 tháng đầu năm nay có rất nhiều nhóm hàng xuất khẩu sang Australia bị sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng dầu thô sang Australia sụt giảm mạnh nhất 75,3% so với cùng kỳ, đạt 59,37 triệu USD; xuất khẩu túi xách, ví,vali, mũ và ô dù cũng giảm mạnh 38,5%, đạt 20,03 triệu USD; hạt tiêu giảm 38,1%, đạt 3,84 triệu USD; dây điện và dây cáp điện giảm 37,2%, đạt 5,89 triệu USD.
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 2 chiều giữa Việt Nam và Australia tăng. |
Tuy nhiên, xuất khẩu nhóm hàng clinker và xi măng tăng mạnh nhất 148,8%, mặc dù kim ngạch chỉ đạt 3,9 triệu USD. Bên cạnh đó, nhóm phương tiện vận tải và phụ tùng cũng tăng cao 104,4%, đạt 68,58 triệu USD; gạo tăng 63,9%, đạt 6,21 triệu USD.
Trong số rất nhiều loại hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Australia, thì nhóm hàng điện thoại và linh kiện đạt kim ngạch lớn nhất 419,23 triệu USD, chiếm 21,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang Australia, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm 2018.
Nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 11% so với cùng kỳ, đạt 234,93 triệu USD, đứng vị trí thứ 2 về kim ngạch, chiếm 12,1%. Nhóm hàng giày dép đứng vị trí thứ 3, với mức tăng 15,3%, đạt 150,54 triệu USD, chiếm 7,8%. Tiếp sau đó là nhóm hàng dệt, may đạt 141,12 triệu USD, chiếm 7,3%, tăng 20,6% so với cùng kỳ.
Hiện nay, Việt Nam và Australia đang đẩy mạnh xuất nhập khẩu 2 chiều, Australia đã cấp phép cho nhập khẩu 4 loại quả của Việt Nam gồm vải tươi, xoài, thanh long và nhãn.
Ở chiều ngược lại, Australia đang xuất sang Việt Nam 148 loại hạt giống, củ giống khoai tây và 4 loại quả tươi như nho, cam, quýt và anh đào và 7 loại hạt giống cỏ, 4 loại cỏ khô.
Theo Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Việt Nam và Australia có cán cân thương mại khá cân bằng và bổ trợ nhau rất tốt trong lĩnh vực nông nghiệp.
Australia có một nền nông nghiệp phát triển cao trên thế giới, chỉ với 4% lao động nông nghiệp, khoảng 250.000 người nhưng đã tạo ra lượng nông sản lớn với kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD. Đây là thành tựu nổi bật và Việt Nam mong muốn học tập kinh nghiệm từ phía Australia, đặc biệt là phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ.
Về xuất khẩu tôm nguyên con sang Australia, Việt Nam mong muốn Australia sớm cử cơ quan chuyên môn sang đánh giá lại lần nữa về qui trình kĩ thuật và an toàn dịch bệnh trong sản xuất tôm Việt Nam, trên cơ sở đó sớm cho phép nhập khẩu tôm nguyên con của Việt Nam.
Ở chiều ngược lại, Australia đã công bố các điều kiện nhập khẩu quả nhãn của Việt Nam và mong muốn thời gian tới có thể xuất khẩu mạch nha và men ủ bia sang Việt Nam.
Xuất khẩu sang Australia 7 tháng đầu năm 2019
ĐVT: USD
Nhóm hàng | Tháng 7/2019 | /- so với tháng 6/2019 (%) * | 7 tháng đầu năm 2019 | /- so với cùng kỳ (%) * |
Tổng kim ngạch XK | 296.673.836 | 21,77 | 1.934.104.036 | -15,34 |
Điện thoại các loại và linh kiện | 27.933.865 | -11,29 | 419.227.750 | -15,45 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 30.428.402 | 7,2 | 234.928.101 | 10,95 |
Giày dép các loại | 21.865.842 | -4,98 | 150.544.175 | 15,34 |
Hàng dệt, may | 21.896.124 | 4,62 | 141.118.764 | 20,55 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác | 24.622.102 | 24,65 | 131.495.574 | -34,44 |
Hàng hóa khác | 18.822.402 | 24,32 | 128.226.553 | |
Hàng thủy sản | 16.232.174 | -9,73 | 110.362.227 | 8,95 |
Gỗ và sản phẩm gỗ | 12.267.534 | 3,6 | 79.753.297 | -21,08 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng | 3.788.448 | -80,4 | 68.584.392 | 104,36 |
Hạt điều | 9.669.192 | 10,63 | 63.882.072 | 3,34 |
Dầu thô | 44.601.540 | 59.370.676 | -75,32 | |
Sản phẩm từ sắt thép | 14.865.811 | 330,01 | 54.731.564 | 5,79 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 4.949.356 | 23,68 | 30.853.160 | -4,12 |
Hàng rau quả | 3.859.293 | 24,37 | 22.967.109 | 33,57 |
Kim loại thường khác và sản phẩm | 4.272.012 | 18,39 | 22.105.108 | 1,53 |
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ | 3.940.164 | 4,61 | 21.913.939 | -14,23 |
Giấy và các sản phẩm từ giấy | 3.562.282 | 4,81 | 21.808.280 | 27,92 |
Cà phê | 3.266.055 | -27,09 | 21.587.325 | -14,12 |
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù | 4.028.309 | 17,46 | 20.031.515 | -38,45 |
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận | 3.495.102 | 22,07 | 19.377.717 | 16,31 |
Sắt thép các loại | 2.279.651 | 35,29 | 18.623.958 | -23,85 |
Sản phẩm hóa chất | 2.660.430 | 32,85 | 14.970.053 | -4,68 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc | 2.839.142 | 56,53 | 13.509.696 | 9,19 |
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm | 1.843.717 | 0,08 | 10.497.107 | 32,33 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày | 1.857.429 | 3,19 | 8.628.185 | 8,91 |
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm | 1.139.616 | -8,24 | 7.880.350 | 7,43 |
Sản phẩm gốm, sứ | 1.352.454 | 19,12 | 7.790.450 | 1,26 |
Gạo | 1.738.993 | 76,05 | 6.209.410 | 63,89 |
Dây điện và dây cáp điện | 838.829 | -0,42 | 5.885.963 | -37,16 |
Sản phẩm từ cao su | 599.356 | 24,31 | 5.129.042 | -32,09 |
Clanhke và xi măng | 98.661 | 82,8 | 3.900.123 | 148,84 |
Hạt tiêu | 320.367 | -35,28 | 3.838.164 | -38,13 |
Chất dẻo nguyên liệu | 397.147 | -3,72 | 2.673.867 | -10,04 |
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện | 342.032 | 154,85 | 1.698.369 | -15,97 |
(*Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp