Advertisement

Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

Đứng thứ 6 thế giới về sản lượng, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu sữa

Thị trường 24h

30/07/2019 15:10

Dù Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 6 các nước châu Á về sản lượng sữa và đứng thứ 4 về năng suất của đàn bò sữa, nhưng sản xuất trong nước vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu và hàng năm vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn sữa và sản phẩm sữa để phục vụ tiêu dùng trong nước.

Nhập khẩu

Năm 2018, Việt Nam đã nhập khẩu 962 triệu USD sữa và sản phẩm từ sữa. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, sang năm 2019, sau khi giảm 2 tháng liên tiếp, kim ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm đã tăng trở lại trong tháng 5/2019 nhưng suy giảm trở lại ở tháng 6, giảm 22,6% tương ứng với 149,8 triệu USD.

Đứng thứ 6 thế giới về sản lượng, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu sữa

Kim ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm tính từ tháng 1/2019 đến tháng 6/2019

ĐVT: USD

Tính chung từ đầu năm đến hết tháng 6/2019 kim ngạch mặt hàng này đạt 879,37 triệu USD, tăng 2,1% so với 6 tháng đầu năm 2018. Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Hải quan.
Tính chung từ đầu năm đến hết tháng 6/2019 kim ngạch mặt hàng này đạt 879,37 triệu USD, tăng 2,1% so với 6 tháng đầu năm 2018. Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Hải quan.

Việt Nam nhập khẩu sữa và sản phẩm chủ yếu từ New Zealand, các nước Đông Nam Á và EU, tỷ trọng từ các thị trường này chiếm lần lượt 17,09%, 13,74% và 10,20%. So sánh với cùng kỳ năm trước, thì trong 6 tháng đầu năm nay kim ngạch nhập từ thị trường New Zealand giảm mạnh tới 34%, ngược lại nhập từ các nước Đông Nam Á và EU lại tăng, tăng lần lượt 9,7% và 8,4%.

Ngoài ba thị trường chủ lực kể trên, Việt Nam còn nhập khẩu từ các thị trước khác nữa như Singapore, Mỹ, Thái Lan, Đức….

Xét về tổng số kim ngạch từ những thị trường cung cấp sữa cho Việt Nam được sắp theo trình tự như sau:

New Zealand là thị trường đứng đầu với mức kim ngạch cao 150,29 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ năm 2018 giảm 10,41%, riêng tháng 6/2019 cũng giảm 34,51% so với tháng 5/2019 và giảm 19,18% so với tháng 6/2018 xuống còn 13,45 triệu USD.

Đứng thứ hai về kim ngạch là thị trường Mỹ 70,9 triệu USD, tăng 26,48% so với cùng kỳ 2018. Trong đó tháng 6/2019 đã nhập từ Mỹ 13,88 triệu USD, giảm 19,85% so với tháng 5/2019 nhưng tăng gấp 2 lần (tương ứng 103,49%) so với tháng 6/2018. Kế đến là các thị trường Singapore, Australia, Thái Lan, Đức, Pháp…

Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2019, kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường hầu hết đều tăng trưởng, số thị trường này chiếm 77,78%, trong đó Việt Nam tăng mạnh nhập khẩu từ Bỉ, tuy chỉ đạt 2,8 triệu USD, chiếm 0,32% tỷ trọng nhưng so với cùng kỳ tăng gấp 2,1 lần (tương ứng 112,79%), riêng tháng 6/2019 cũng đã nhập từ Bỉ 806,8 nghìn USD, tăng 28,57% so với tháng 5/2019, nhưng so với tháng 6/2018 tăng đột biến gấp 12,14 lần (tương ứng 1114,55%).

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tăng mạnh nhập từ thị trường Australia đạt 26,85 triệu USD, tăng gấp 2 lần (tương ứng 104,47%), mặc dù trong tháng kim ngạch giảm 16,7% so với tháng 5/2019 và giảm 3,41% so với tháng 6/2018 xuống còn 2,26 triệu USD.

Ở chiều ngược lại, Việt Nam giảm mạnh nhập từ thị trường Đức, giảm 25,59% chỉ với 23,06 triệu USD. Riêng tháng 6/2019 cũng giảm 5,09% so với tháng 5/2019 và giảm 17,79% so với tháng 6/2018 tương ứng với 3,91 triệu USD.

Thị trường nhập khẩu sữa và sản phẩm 6 tháng đầu năm 2019:

Thị trường Tháng 6/2019 (USD) /- so với tháng 5/2019 (%)* 6 tháng năm 2019 (USD) /- so với cùng kỳ 2018 (%)*
New Zealand 13.451.847 -34,51 150.297.166 -10,41
Mỹ 13.882.344 -19,85 70.906.366 26,48
Singapore 10.037.804 -39,11 66.982.544 0,7
Thái Lan 5.258.809 102,87 29.365.673 2,04
Australia 2.260.307 -16,7 26.854.198 104,47
Đức 3.913.534 -5,09 23.067.838 -25,59
Pháp 3.591.229 -20,06 22.163.765 34,97
Nhật Bản 3.165.003 -41,99 21.181.944 33,61
Malaysia 3.211.336 -31,8 21.166.618 21,53
Hà Lan 2.545.102 -30,61 17.268.007 -7,29
Ireland 2.716.272 78,11 8.293.229 6,89
Thụy Sỹ 2.047.039 25,18 8.213.164
Ba Lan-23. 1.614.265 -39,99 8.176.774 -23,35
Tây Ban Nha 552.828 50,75 6.858.949 28,55
Hàn Quốc 1.011.603 -9,06 6.302.334 8,59
Philippines 598.327 21,46 3.328.535 54,75
Bỉ 806.848 28,57 2.864.304 112,79
Đan Mạch 161.782 -52,5 1.005.846 40,85

Xuất khẩu

Khi nguồn cung đã đáp ứng thị trường nội địa, để tăng dư địa phát triển các doanh nghiệp ngành sữa đã chọn con đường xuất ngoại, dù cách tiếp cận thị trường khác nhau.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, giai đoạn 2016-2018, giá trị xuất khẩu sữa và sản phẩm từ sữa của Việt Nam liên tục tăng. Cụ thể, từ con số 84,47 triệu USD năm 2016 tăng lên 82,65 triệu USD năm 2017 và 129,68 triệu USD năm 2018.

Theo đó, giá trị kim ngạch xuất khẩu trung bình cả giai đoạn tăng trưởng là 27,37%. Riêng quý 1/2019 giá trị xuất khẩu sữa đạt 48,6 triệu USD. Trong đó, các thị trường chính là Iraq, Hongkong, Trung Quốc, Afganistan, Philppines và một số nước khác như UAE, Lào, Myanmar, Nhật Bản...

Đạt được kết quả này do ngành sữa trong nước đã thực hiện tốt các yêu cầu kiểm dịch sản phẩm sữa của các nước khi nhập khẩu sản phẩm từ Việt Nam. Bên cạnh đó đã có những biện pháp tổ chức thực hiện để kiểm dịch xuất khẩu sữa và sản phẩm từ Việt Nam sang các nước.

Hiện tại, Việt Nam có khoảng 60 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sữa với hơn 300 nhãn hàng, trong đó 10 doanh nghiệp có sản phẩm sữa xuất khẩu và chủ yếu là các công ty Vinamilk, TH true Milk, Mộc Châu Milk…

Ngoài xuất khẩu, các doanh nghiệp sữa Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể, Vinamilk đầu tư về ngành sữa sang Mỹ, New Zealand, Campuchia, Ba Lan, Lào, Myanmar và đang tìm kiếm mở rộng thị trường sang EU, châu Phi và Nam Mỹ. TH true Milk đầu tư dự án khoảng 2,7 tỷ USD sang Nga để chăn nuôi, chế biến sữa…

TRÚC BÌNH
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement