21/06/2020 15:24
Dự báo giá heo hơi tuần tới (22 - 27/6): Khó giảm sâu
Các doanh nghiệp nhập khẩu heo cho rằng, giá heo khó giảm sâu trong thời gian tới, bởi chăn nuôi heo theo mô hình khép kín, đảm bảo an toàn sinh học đòi hỏi chi phí cao; tỉ lệ tái đàn đang chậm lại do dịch tả heo Châu Phi diễn biến phức tạp khiến nguồn cung chưa thể tăng nhanh.
Trong tuần qua, ngay sau khi lô heo sống về Việt Nam để giết mổ làm thực phẩm nhiều doanh nghiệp chăn nuôi lớn đã đồng loạt giảm giá bán heo hơi từ 1.000 - 2.000 đồng/kg trên thị trường, xuống mức 82.000 - 89.000 đồng/kg và so với thời điểm tăng đột biến đã giảm khoảng 10.000 đồng/kg.
Hiện tại, các địa phương ở miền Bắc đang bán heo hơi giá 88.000 - 91.000 đồng/kg, tại miền Trung từ 82.000 - 89.000 đồng/kg, miền Nam từ 85.000 - 88.000 đồng/kg.
Được biết, mỗi ngày có khoảng 7.000 - 9.000 con heo được nhập khẩu tiểu ngạch về Việt Nam, tuy nhiên giá heo hơi trong nước vẫn giảm rất "nhỏ giọt". Cụ thể, cách đây đúng 2 tuần (ngày 8/6), giá heo hơi bán ra tại miền Bắc ở mức 94.000 - 97.000 đồng; tại miền Trung và miền Nam: 90.000 - 96.000 đồng.
Tính đến ngày 20/6, giá heo hơi đã giảm 10.000 đồng/kg. Đặc biệt, giá heo miền Bắc từ mức cao vô lý (có thời điểm một số địa phương giá lên đến 104.000 đồng/kg) thì nay đã giảm xuống còn 88.000 - 90.000 đồng/kg).
Tuy nhiên, khi quyết định nhập heo sống về Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) kỳ vọng giá heo hơi sẽ giảm nhanh và giảm sâu hơn nữa. Thế nhưng, từ 2 ngày nay, mức giảm đã chững lại, thậm chí có địa phương giá tăng nhẹ trở lại khoảng 1.000 đồng/kg.
Lý do giá heo hơi khó giảm sâu, theo Bộ NNPTNT, bởi nguồn heo trên thị trường thế giới khan hiếm. Mặt khác, nông dân Thái Lan khi thấy Việt Nam nhập khẩu heo hơi cũng đẩy giá lên cao để kiếm lời. "Từ chi phí giá thành chăn nuôi 50.000 - 52.000 đồng/kg, giá heo hơi tại Thái Lan đã bị đẩy lên thành 62.000 - 63.000 đồng/kg", ông Phạm Trần Sum, Giám đốc Công ty TNHH Dinh dưỡng quốc tế Việt Đức cho biết.
Bên cạnh đó, trong quá trình vận chuyển về đến Việt Nam, chi phí cho mỗi con heo 100kg bị đội lên khoảng 1,3 - 1,5 triệu đồng, đẩy giá heo hơi khi nhập về Việt Nam lên khoảng 80.000 - 82.000 đồng/kg, khiến giá heo hơi trong nước khó giảm sâu.
Các doanh nghiệp nhập khẩu heo cũng cho rằng, giá heo khó giảm sâu trong thời gian tới, bởi chăn nuôi heo theo mô hình khép kín, đảm bảo an toàn sinh học đòi hỏi chi phí cao; tỉ lệ tái đàn đang chậm lại do dịch tả heo Châu Phi diễn biến phức tạp khiến nguồn cung chưa thể tăng nhanh.
Ngoài ra, theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa, tổng đàn heo được tái đàn, tăng đàn trong quý I năm 2020 của toàn tỉnh đạt 191.685 con. Trong đó, heo nái là 22.292 con, heo thịt 169.393 con.
Bên cạnh những kết quả tích cực này, dịch tả heo châu Phi cũng đang tái phát tại một số địa phương như Quảng Ninh, Bắc Kạn,... được biết do nôn nóng tái đàn, người chăn nuôi mua heo không rõ nguồn gốc.
Trong khi đó, tình trạng nhập lậu heo đang diễn biến phức tạp tại các cửa khẩu. Với tình hình này, nếu heo sống nhập khẩu chính ngạch không nhanh chóng được tung ra thị trường, giá heo hơi miền Bắc có thể sẽ tiếp tục tăng mạnh trở lại.
BẢNG GIÁ HEO HƠI NGÀY 22/6/2020 | ||
Tỉnh/thành | Khoảng giá (đồng/kg) | Tăng ( )/giảm (-) đồng/kg |
Hà Nội | 87.000-88.000 | -1.000 |
Hải Dương | 89.000-90;000 | Giữ nguyên |
Thái Bình | 88.000-90.000 | -2.000 |
Bắc Ninh | 88.000-89.000 | Giữ nguyên |
Hà Nam | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Hưng Yên | 90.000-91.000 | -2.000 |
Nam Định | 89.000-90.000 | -1.000 |
Ninh Bình | 89.000-90.000 | -1.000 |
Hải Phòng | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ninh | 89.000-90.000 | -1.000 |
Lào Cai | 88.000-89.000 | -1.000 |
Tuyên Quang | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Cao Bằng | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Bắc Kạn | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Phú Thọ | 87.000-88.000 | -1.000 |
Thái Nguyên | 90.000-91.000 | -1.000 |
Bắc Giang | 90.000-92.000 | Giữ nguyên |
Vĩnh Phúc | 88.000-89.000 | -1.000 |
Lạng Sơn | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Lai Châu | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Thanh Hóa | 90.000-91.000 | -2.000 |
Nghệ An | 88.000-89.000 | -2.000 |
Hà Tĩnh | 88.000-89.000 | -1.000 |
Quảng Bình | 84.000-85.000 | -1.000 |
Quảng Trị | 83.000-84.000 | -1.000 |
TT-Huế | 85.000-86.000 | -1.000 |
Quảng Nam | 90.000-91.000 | -1.000 |
Quảng Ngãi | 83.000-84.000 | -1.000 |
Bình Định | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Phú Yên | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Ninh Thuận | 85.000-86.000 | -1.000 |
Khánh Hòa | 89.000-90.000 | -2.000 |
Bình Thuận | 82.000-83.000 | Giữ nguyên |
Đắk Lắk | 82.000-83.000 | Giữ nguyên |
Đắk Nông | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Lâm Đồng | 87.000-88.000 | -1.000 |
Gia Lai | 85.000-86.000 | -1.000 |
Đồng Nai | 85.000-86.000 | -3.000 |
TP.HCM | 86.000-87.000 | -1.000 |
Bình Dương | 86.000-88.000 | -2.000 |
Bình Phước | 85.000-86.000 | -1.000 |
BR-VT | 84.000-85.000 | -3.000 |
Long An | 84.000-85.000 | -3.000 |
Tiền Giang | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Bạc Liêu | 85.000-86.000 | -1.000 |
Bến Tre | 84.000-85.000 | -1.000 |
Trà Vinh | 85.000-86.000 | -2.000 |
Cần Thơ | 87.000-88.000 | -2.000 |
Hậu Giang | 85.000-86.000 | -2.000 |
Cà Mau | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Vĩnh Long | 88.000-89.000 | -1.000 |
An Giang | 88.000-89.000 | -1.000 |
Kiêng Giang | 86.000-87.000 | -2.000 |
Sóc Trăng | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Đồng Tháp | 88.000-89.000 | -1.000 |
Tây Ninh | 86.000-87.000 | -2.000 |
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp