27/08/2019 10:48
Doanh nghiệp cần thận trọng trong giao dịch số khi xuất khẩu hàng hóa
Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) vừa tổ chức Diễn đàn xuất khẩu 2019 với chủ đề “Nâng cao hiệu quả xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập và xu hướng kinh tế số”.
Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) vừa tổ chức Diễn đàn xuất khẩu 2019 với chủ đề “Nâng cao hiệu quả xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập và xu hướng kinh tế số”.
Gắn kết mặt hàng xuất khẩu và thị trường
Tại diễn đàn, Ông Phạm Thiết Hòa, Giám đốc ITPC nhấn mạnh các giải pháp nâng cao hiệu quả xúc tiến xuất khẩu cần theo hướng gắn kết mặt hàng xuất khẩu và thị trường, tận dụng cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế.
TP.HCM cần đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu trong những năm tới với hai thị trường là đối tác thương mại lớn của Việt Nam là Trung Quốc và Hoa Kỳ; thị trường các nước thuộc các hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU; các thị trường Việt Nam ký kết các FTA song phương như Nhật Bản, Hàn Quốc, Chile.
Việt Nam cũng định hướng xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường Việt đang đàm phán FTA như Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA) gồm Thụy Sĩ, Nauy, Iceland, Liechtenstein; Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) gồm ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand; và Israel.
Các doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng. Ảnh: Cẩm Viên. |
Về xuất khẩu hàng hóa, chúng ta nên đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu tập trung vào 7 nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực (sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; sản phẩm thiết bị điện; sản phẩm từ nhựa, cao su; thực phẩm chế biến; đồ uống; sản phẩm điện tử - công nghệ thông tin; trang phục may sẵn)
Một số nhóm sản phẩm công nghiệp tiềm năng (thuốc, hóa dược và dược liệu) và 03 nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực (trồng trọt rau và hoa cây kiểng; chăn nuôi bò sữa và heo; thủy sản gồm tôm nước lợ và cá cảnh).
Ngoài ra, hoạt động xúc tiến xuất khẩu cũng tập trung vào mặt hàng gỗ và sản phẩm từ gỗ, một mặt hàng chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu xuất khẩu của thành phố. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu dịch vụ sẽ đẩy mạnh cho các lĩnh vực: du lịch, viễn thông, phần mềm – nội dung số.
Hiện nay, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 96% tổng số lượng doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh, là các doanh nghiệp có nguồn vốn và công nghệ còn hạn chế, do đó việc hỗ trợ đối tượng doanh nghiệp này là rất cần thiết, đặc biệt là hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu.
Ông Phạm Thiết Hòa cũng lưu ý 5 vấn đề quan trọng mà doanh nghiệp cần nắm vững trong các FTA để nắm lấy cơ hội và phòng tránh rủi ro trong xuất khẩu, là: lộ trình cắt giảm thuế, các rào cản phi thuế quan, quy tắc xuất xứ, sở hữu trí tuệ, mua sắm công.
Thành phố sẽ có những giải pháp nhằm tăng cường năng lực cho doanh nghiệp, như: hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa xây dựng và phát triển thương hiệu; cung cấp thông tin thị trường, ngành hàng xuất khẩu; hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các chương trình khảo sát thị trường; tổ chức các khóa huấn luyện và đào tạo kiến thức xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường; tập huấn cho doanh nghiệp về tiêu chuẩn HALAL để xuất khẩu sang các thị trường đạo Hồi.
Những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp kết nối được mở rộng với nhiều hình thức B2B, B2G, B2C... và nhiều hoạt động kết nối với các cơ quan đại diện, các tổ chức xúc tiến nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh; các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài; kết nối xuất khẩu thông qua các chuỗi siêu thị nước ngoài và kênh thương mại điện tử; kết nối thông qua các chương trình hội chợ - triển lãm ở nước ngoài; kết nối doanh nhân Việt kiều tại các nước; kết nối vùng nguyên liệu - phối hợp liên kết tạo thành chuỗi giá trị nguyên liệu phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Về tiềm năng phát kinh tế số ở Việt Nam, ông Phạm Thiết Hòa nhận định Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế số khá trong khu vực ASEAN, xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, tỷ lệ người sử dụng Internet cao, thương mại điện tử đang phát triển nhanh. Việt Nam vào top 3 thị trường thương mại điện tử (TMĐT) tăng trưởng nhanh nhất thế giới, sau Thái Lan và Malaysia; đang có những điều kiện rất tốt cho sự phát triển của nền kinh tế số.
Nhìn rõ xu hướng tiêu dùng để định hướng xuất khẩu vào từng thị trường
Theo ông Nguyễn Huy Hoàng, Giám đốc thương mại Công ty nghiên cứu thị trường Kantar Worldpanel, doanh nghiệp cần nhìn rõ ba động lực chính thúc đẩy sự tăng trưởng hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là: chiến tranh thương mại Mỹ - Trung; CPTPP và các FTA; kỹ thuật số và thương mại điện tử.
Sự chuyển dịch của các chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á do bị đánh thuế cao mang lại tiềm năng lớn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Doanh nghiệp cần nhiều nỗ lực hơn để tận dụng tối đa lợi ích từ các FTA giữa Việt Nam với các nước. Người tiêu dùng kết nối nhiều hơn, đặc biệt thông qua thiết bị di động giúp việc mua sắm xuyên quốc gia trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Châu Á, Mỹ và Châu Âu (bao gồm Anh) là những thị trường tiềm năng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Việt Nam cơ hội xuất khẩu nông sản mạnh. Ảnh: Cẩm Viên. |
Châu Á chiếm 60% dân số thế giới, là thị trường tiềm năng. Khi xuất khẩu vào châu Á, doanh nghiệp chú ý ở các nước phát triển, cần tập trung vào nhóm người cao niên, trong khi ở các nước đang phát triển, nhóm người trẻ tuổi lại là nhóm đối tượng tiêu dùng chủ yếu.
Năm xu hướng tiêu dùng chính ở châu Á là: an toàn và tốt cho sức khỏe; sự vui vẻ, thoải mái, hạnh phúc; sự tiện lợi, dễ sử dụng, dễ tiếp cận; kỹ thuật số và thương mại điện tử; mua sắm đa kênh.
Với cuộc sống bận rộn hơn, người tiêu dùng châu Á quan trọng sự tiện lợi hơn. Đây là cơ hội cho các sản phẩm, dịch vụ giúp cuộc sống trở nên dễ dàng hơn như dịch vụ vệ sinh nhà cửa, sản phẩm đa chức năng, sản phẩm có hiệu quả nhanh, bữa ăn nhanh tại nhà, sản phẩm tích hợp.
Các kênh mua sắm tiện lợi dễ tiếp cận nhanh chóng liên tục tăng trưởng cao hơn so với tổng thị trường hàng tiêu dùng nhanh ở châu Á.
Châu Á là khu vực ưu tiên cho di động với lượng người dùng tương tác cao với điện thoại di động hơn các khu vực khác. Do vậy, châu Á là cái nôi phát triển thương mại điện tử hiện nay và sẽ còn tiếp tục tăng tốc.
Với xu hướng mua sắm đa kênh, doanh nghiệp nghiên cứu tăng cường phối hợp giữa các mô hình truyền thống và trực tuyến; các mô hình bán lẻ mới. Ở Mỹ và châu Âu, phần lớn người tiêu dùng rơi vào nhóm lớn tuổi, họ có thói quen và hành vi khác với nhóm người trẻ ở Châu Á.
Năm xu hướng tiêu dùng chính ở Mỹ và châu Âu là: an toàn và tốt cho sức khỏe; sự phân cực về hàng hóa (hàng nhãn riêng và giá rẻ với sản phẩm cao cấp); tiện lợi hơn nữa; nâng cao trải nghiệm mua sắm; bền vững xã hội.
Với lượng người tiêu dùng có ý thức cao về sức khỏe, chế độ dinh dưỡng thay đổi ít đường và nhiều đạm, Mỹ và châu Âu là những thị trường lớn cho sản phẩm hữu cơ (organic), trong đó Mỹ chiếm gần 50% thị phần.
Người tiêu dùng ở Mỹ và châu Âu có khuynh hướng chọn các sản phẩm giá thấp, tuy nhiên họ cũng sẵn sàng chi cho các mặt hàng cao cấp nếu giá trị mang lại tương xứng. Họ cũng đề cao sự tiện lợi trong mọi khía cạnh của cuộc sống.
Tích hợp online và offline để nâng cao trải nghiệm mua hàng là cần thiết. Thế nhưng, trực tuyến sẽ không thay thế hoàn toàn cho những trải nghiệm thật bởi vì người tiêu dùng ở Mỹ và châu Âu vẫn muốn cảm nhận trực tiếp, thực tế hơn.
Do đó, các doanh nghiệp “thông minh” đang quay trở lại những điều cốt lõi, tập trung vào trải nghiệm thực tế và tận dụng kỹ thuật số để mang lại cho người tiêu dùng những trải nghiệm liền mạch hơn, tuyệt vời hơn.
Các sản phẩm tích hợp giọng nói đã khuyến khích người mua từ bỏ các sản phẩm không có nhiều trải nghiệm, thay vào đó là sự tự động hóa. Thực tế ảo và thực tế ảo tăng cường đang gia tăng tương tác với người tiêu dùng trong hành trình mua hàng.
Người tiêu dùng ngày nay phản ứng nhiều hơn trước những vấn đề xã hội như rác thải, trái đất nóng lên, ô nhiễm môi trường, nên ở Mỹ và châu Âu cũng gia tăng làn sóng dịch chuyển về phía các thương hiệu quan tâm đến sự bền vững của xã hội.
Thận trọng rủi ro trong giao dịch có yếu tố “số hóa”
Tại hội thảo, ông Châu Việt Bắc, Phó Tổng thư ký Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) đã trao đổi với doanh nghiệp những vấn đề cần lưu ý trong hoạt động thương thảo hợp đồng xuất nhập khẩu và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, trong đó ông nhấn mạnh về xu hướng của các phương thức giao dịch trong bối cảnh kinh tế số.
Chuyển hướng của hình thức giao dịch biểu hiện trong thời đại công nghệ 4.0 là: sự hình thành của các nền tảng (platform) kinh doanh điện tử; việc trao đổi giấy tờ được chuyển từ bàn giấy sang email; thanh toán thông qua công cụ điện tử; giao dịch từ xa thông qua hợp đồng điện tử.
Xét về quy mô doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) có tỷ lệ trên 50% lao động sử dụng email cao hơn nhóm doanh nghiệp lớn. Mục đích chính sử dụng email trong doanh nghiệp vẫn là dùng để giao dịch với khách hàng và nhà cung cấp (74%).
Kinh tế số, cơ hội Việt Nam giới thiệu sản phẩm trên toàn thế giới. Ảnh: Cẩm Viên. |
Hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và đặc biệt là mạng internet, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang sử dụng internet rất nhiều và phổ biến để giao kết hợp đồng, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Thống kê của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) năm 2018, đã có 28% số doanh nghiệp tại Việt Nam sử dụng hợp đồng điện tử.
Giải quyết tranh chấp thương mại cũng có sự thay đổi trong bối cảnh kinh tế số với các phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến. “Phương thức giải quyết tranh chấp thay thế” được hiểu là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án gồm 4 phương thức: thương lượng trực tuyến (online negotiation); hòa giải trực tuyến (online mediation); trọng tài trực tuyến (online arbitration); các phương thức hỗn hợp khác.
Chứng cứ điện tử hầu như được chấp nhận tại tòa án và trọng tài. VIAC trong 26 năm hoạt động cũng đi theo tiến trình công nghệ số: thực hiện giải quyết các tranh chấp các vụ việc có hệ quả phát sinh từ yếu tố điện tử như chứng từ, giao dịch email,…; xây dựng tiến trình quản lý giải quyết tranh chấp bằng công cụ điện tử; áp dụng việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức online.
Ông Châu Việt Bắc đưa ra so sánh những yếu tố thuận lợi và bất lợi giữa giao dịch truyền thống và giao dịch thông qua công cụ điện tử của doanh nghiệp.
Giao dịch truyền thống minh bạch giấy tờ, “giấy trắng mực đen” rõ ràng; tuân thủ theo yêu cầu của pháp luật về hình thức giao dịch giữa các bên, nhưng vấn đề thu thập chứng cứ chứng minh việc mất giấy tờ dễ dẫn đến không thể chứng minh để đòi quyền lợi, chưa kể tác động của các yếu tố môi trường đến giấy tờ.
Còn giao dịch thông qua công cụ điện tử, đảm bảo các thông tin được lưu trữ tự động; tiết kiệm thời gian, chi phí vận chuyển chứng từ, văn bản giữa các bên; tuy nhiên, bất lợi là không kiểm soát được về tính chính xác của các công cụ trao đổi: email, fax… không kiểm soát được về thẩm quyền của người làm việc qua các công cụ trao đổi.
Giá trị pháp lý của hợp đồng, chứng từ điện tử không bị phủ nhận ở hầu hết quy định của các quốc gia trên thế giới và Việt Nam.
Thế nhưng, ông Châu Việt Bắc lưu ý khi thực hiện giao dịch có yếu tố “số hóa” thì phải áp dụng công cụ số an toàn trong quá trình thực hiện hợp đồng, những giao dịch bắt buộc phải thực hiện thông qua văn bản nhằm đảm bảo yêu cầu về chứng cứ chứng minh.
Mặc dù sự phát triển theo xu hướng kinh tế số là cần thiết, nhưng yếu tố về chứng cứ bằng văn bản cần được chú trọng nhằm hạn chế những rủi ro và yếu thế khi phát sinh tranh chấp.
Advertisement
Advertisement
Đọc tiếp