Advertisement

Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

COVID-19 đã tạo ra các tỷ phú fintech như thế nào?

Kinh tế thế giới

29/09/2020 23:49

Việc nhiều người dùng ở nhà và gia tăng nhu cầu mua sắm trực tuyến đã tạo động lực thúc đẩy cho các mô hình trả góp trực tuyến và ngân hàng điện tử phát triển mạnh, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều tỷ phú mới.

Vào năm 2015, Nick Molnar vẫn đang sống với cha mẹ ở Sydney (Australia). Anh dùng chiếc máy tính để bàn trong phòng ngủ từ thời thơ ấu của mình để bán đồ trang sức. Dần dần, từ đồng đồ Seiko 250 USD đến nhẫn đính hôn 10.000 USD, chàng trai 25 tuổi này đã trở thành người bán trang sức hàng đầu của Australia trên eBay.

Cùng năm đó, Molnar hợp tác với Anthony Eisen, một cựu nhân viên ngân hàng đầu tư, hơn anh 19 tuổi. Họ đồng sáng lập Afterpay, một dịch vụ trực tuyến cho phép người mua hàng từ Hoa Kỳ, Anh, Úc, New Zealand và Canada thanh toán các mặt hàng có giá trị nhỏ như giày và áo sơ mi, trong 4 lần thanh toán không lãi suất, với kỳ hạn là 6 tuần.

Hai đồng sáng lập của Afterpay Nick Molnar (phải) và Anthony Eisen. Ảnh: The Autralian
Hai đồng sáng lập của Afterpay Nick Molnar (phải) và Anthony Eisen. Ảnh: The Autralian

Nick Molnar, giờ đã là một tỷ phú 30 tuổi, nói: “Tôi là một Millennial (chỉ thế hệ đầu tiên tiếp cận với các phương tiện truyền thông và mạng internet) lớn lên trong cuộc khủng hoảng năm 2008. Và tôi đã chứng kiến sự thay đổi lớn từ tín dụng sang ghi nợ. Vì sợ phải gánh khoản nợ lãi suất cao trong thẻ tín dụng của mình, nhiều người đã nhanh chóng chuyển sang dùng thẻ ghi nợ để có thể mua và lấy hàng ngay, trong khi thanh toán muộn hơn một chút”.

Sau 5 năm sáng lập Afterpay, Molnar và Eisen, mỗi người sở hữu khoảng 7% cổ phần của công ty, đã trở thành tỷ phú nhờ đại dịch.

Khi bắt đầu thực hiện giãn cách xã hội, cổ phiếu của Afterpay đã sụt giảm. Tuy nhiên, nhờ vào sự gia tăng kinh doanh gắn liền với thương mại điện tử, cổ phiếu của công ty này đã tăng gần gấp 10 lần, so với giá công khai vào năm 2016. Chỉ trong quý 2, Afterpay đã xử lý 3,8 tỷ USD giao dịch, tăng 127% so với cùng kỳ năm trước đó.

Mua trước, trả sau

Molnar và Eisen không phải là những người duy nhất có vận may tăng vọt trong vài tháng qua. Theo phân tích của Forbes, ít nhất 5 doanh nhân fintech bao gồm cả 2 người Australia đã lọt vào bảng xếp hạng tỷ phú do đại dịch. Những người khác gồm Chris Britt – người sáng lập ngân hàng kỹ thuật số Chime, Vlad Tenev và Baiju – đồng CEO của ứng dụng giao dịch chứng khoán Robinhood.

Một số nhà sáng lập khác từ các công ty như Klarna và Marqeta cũng đã có những bước tăng trưởng và bất ngờ đạt được vị thế tỷ phú.

Cũng như nhiều lĩnh vực khác, COVID-19 đã tạo ra cả kẻ thắng và người thua trong lĩnh vực fintech. Ví dụ, LendingClub, cung cấp các khoản vay cá nhân cho những người tiêu dùng có rủi ro cao hơn, đã sa thải 30% nhân viên. Công ty cho vay kinh doanh nhỏ On Deck cũng “vấp phải” tình trạng tương tự.

Theo chiều ngược lại, đối với một loạt các công nghệ fintech liên quan đến thanh toán và người tiêu dùng, COVID-19 đã mang đến một sự phát triển mạnh mẽ. Ví dụ điển hình cho điều này là “người khổng lồ” thương mại điện tử Amazon và các ứng dụng làm việc tại nhà như Zoom, Slack và DocuSign.

Victoria, một lãnh đạo đầu tư fintech tại Felicis Ventures (felicis.com), cho biết: “Việc sử dụng fintech của người tiêu dùng đã bùng phát mạnh mẽ, đặc biệt là ở nhóm tuổi 20 đến đầu 40. Và khi đại dịch xảy ra, nhóm tuổi này đã được mở rộng hơn nữa, bao gồm cả những người từ 40 đến 60 tuổi”.

Theo đó, COVID-19 đang hỗ trợ cho sự phát triển của nhiều công ty fintech, trong đó có một số công ty hỗ trợ thanh toán, khi ngày càng nhiều người tiêu dùng chuyển sang chi tiêu trực tuyến cùng với các dịch vụ giao hàng.

Marqeta, một công ty xử lý thanh toán chuyên biệt có khách hàng bao gồm Instacart, DoorDash và Postmate, đã đàm phán để đưa ra thị trường với mức định giá 8 tỷ USD, gấp 4 lần so với giá trị của nó vào tháng 3/2019. Điều này sẽ mang lại cho CEO Jason Gardner, người sở hữu khoảng 10% Marqeta, sẽ có số cổ phần trị giá 800 triệu USD.

 Thẻ tín dụng “yếu thế”, thẻ ghi nợ “lên hương”

Trong quý 2 năm 2020, trong bối cảnh “khóa cửa” vì dịch bệnh, người tiêu dùng đã cắt giảm chi tiêu cho du lịch, nhà hàng và các mặt hàng xa xỉ mà họ thường sử dụng trong thẻ tín dụng của mình, nhưng vẫn tiếp tục chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu và các mặt hàng nhỏ hơn bằng thẻ ghi nợ.

Cũng trong quý này, lượng giao dịch thẻ tín dụng Visa giảm 24% so với năm trước, trong khi giao dịch thẻ ghi nợ tăng 10%, theo nghiên cứu của công ty MoffettNathanson. Thẻ ghi nợ cũng là phương tiện chi tiêu thường xuyên nhất được cung cấp bởi các ngân hàng công nghệ như SoFi, Dave và MoneyLion.

  Khối lượng giao dịch tín dụng và ghi nợ qua thẻ visa tại Mỹ theo MoffettNathanson.

Khối lượng giao dịch tín dụng và ghi nợ qua thẻ visa tại Mỹ theo MoffettNathanson.

Đặc biệt, ngân hàng kỹ thuật số Chime, có trụ sở tại San Francisco, đã sử dụng các khoản thanh toán kích cầu để làm lợi thế của mình. Vào giữa tháng 4, khoảng một tuần trước khi ngân phiếu kích cầu 1.200 USD của chính phủ bắt đầu đổ vào tài khoản của người Mỹ, công ty đã ứng trước cho khách hàng số tiền đó, cuối cùng kéo dài hơn 1,5 tỷ USD.

Britt, CEO của Chime, nói: “Đại dịch đã làm suy giảm tổng chi tiêu của người tiêu dùng và tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao 8,4%. Đây là hai yếu tố ảnh hưởng đến cơ sở khách hàng có thu nhập trung bình của Chime. Tuy nhiên, trên cơ sở mỗi người dùng, chi tiêu trung bình của mỗi khách hàng đã tăng so với năm ngoái”.

Hiện tại, doanh thu hàng năm của Chime đang ở mức 600 triệu USD. Tuy nhiên, theo công bố vào giữa tháng 9, mức định giá của công ty này lên đến 14,5 tỷ USD cùng với 485 triệu USD gây quỹ. Con số này ở mức gấp 24 lần doanh thu của Chime.

Một số nhà đầu tư đang tự hỏi liệu Chime có đáng được giá trị cao như vậy không, trong khi Green Dot, một công ty fintech giao dịch công khai cung cấp tài khoản séc và thẻ ghi nợ, có giao dịch với doanh thu gấp đôi Chime.

Để trả lời cho vấn đề này, Britt nói: “Chúng tôi giống một doanh nghiệp xử lý thanh toán hơn. Vì hầu hết doanh thu của Chime đều đến từ việc trao đổi, phí mà người bán phải trả khi người dùng của Chime quẹt thẻ ghi nợ của họ”.

Theo Forbes, ước tính Britt có ít nhất 10% cổ phần của Chime. Điều này có nghĩa là, số cổ phần của CEO này trị giá hơn 1,3 tỷ USD (Forbes áp dụng chiết khấu 10% cho tất cả cổ phần của công ty tư nhân). Và Britt cũng đang lên kế hoạch đưa Chime IPO.

Nhiều công ty fintech vụt sáng

Việc bị mắc kẹt tại nhà, trong khi thị trường chứng khoán liên tục biến động, các gói hỗ trợ của chính phủ Mỹ tung ra đã khiến một bộ phận thế hệ Y và X ở Mỹ trở thành những nhà đầu tư F0.

Điều này đã giúp các ứng dụng giao dịch chứng khoán như Robinhood có lợi thế để phát triển mạnh mẽ. Vòng gây quỹ gần đây nhất của Robinhood vào tháng 9 đã định giá 11,7 tỷ USD và các nhà đồng sáng lập của công ty này có giá trị tài sản ròng là 1 tỷ USD mỗi người.

  Hai đồng sáng lập của Robinhood Baiju Bhatt (trái) và Vladimir Tenev. Ảnh: Forbes

Hai đồng sáng lập của Robinhood Baiju Bhatt (trái) và Vladimir Tenev. Ảnh: Forbes

Tuy nhiên, khi xem xét việc Morgan Stanley mua lại E-Trade với giá 13 tỷ USD và Schwab mua TD Ameritrade với giá 26 tỷ USD, nhiều người nghĩ rằng Robinhood có thể thu được định giá 20 tỷ USD nếu công ty này được công khai hoặc được mua lại.

Một đối thủ “đáng gờm” khác trong lĩnh vực fintech là Take Klarna. Công ty này được thành lập tại Stockholm (Thụy Điển) vào năm 2005 và thâm nhập thị trường Mỹ vào năm 2016. Hai trong số ba nhà sáng lập của công ty, Sebastian Siemiatkowski và Niklas Adalberth, là những người đi tiên phong trong mô hình “mua ngay trả sau”.

Họ gọi đó là “thử trước khi mua” và cho phép mọi người sở hữu sản phẩm trong 30 ngày trước khi thực hiện khoản thanh toán đầu tiên. Điều này hấp dẫn hơn rất nhiều so với cách đặt hàng cũ khi mà người mua phải trả góp tất cả trước khi nhận được một món hàng. CEO Sebastian Siemiatkowski cũng cho biết, công ty đang sử dụng tài trợ trả góp để xây dựng một doanh nghiệp ngân hàng.

  CEO của Klarne Sebastian Siemiatkowski.

CEO của Klarne Sebastian Siemiatkowski.

Đại dịch đã thúc đẩy công việc kinh doanh của Klarna phát triển mạnh. Vào cuối nửa đầu năm 2020, cơ sở khách hàng tại Hoa Kỳ của công ty đạt 9 triệu người, tăng 55% so với cùng kỳ năm trước.

Trên toàn cầu, 55.000 người tiêu dùng đang tải xuống ứng dụng Klarna mỗi ngày, gấp hơn 2 lần so với tốc độ của năm ngoái. Klarna hiện đã có mặt tại 19 quốc gia, có 90 triệu người dùng và dự kiến sẽ mang lại doanh thu hơn 1 tỷ USD trong năm nay. Khi tăng một vòng tài trợ mới vào tuần trước, định giá của Klarna đã tăng gần gấp đôi so với một năm trước, đạt 10,7 tỷ USD.

Theo đánh giá của Forbes, mức định giá cao “ngất ngưởng” hiện tại của các công ty fintech dựa trên cơ sở nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng vẫn đang tăng mạnh và thói quen mua sắm trực tuyến được hình thành trong đại dịch vẫn được duy trì.

Tuy nhiên, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi fintech mua trả góp thu hút được nhiều khách hàng và sự chú ý hơn thì các công ty này cũng phải đối mặt với sự giám sát bổ sung từ các cơ quan quản lý. Vào tháng 3, Afterpay đã chi hơn 1 triệu USD, bao gồm 905.000 USD tiền hoàn lại cho người tiêu dùng, sau khi Bộ Giám sát Kinh doanh của California (DBO) kết luận rằng, Afterpay đang hoạt động kinh doanh cho vay không có giấy phép.

Sau đó, công ty cũng đã lên tiếng phản bác: “Afterpay bác bỏ quan điểm cho rằng công ty hoạt động bất hợp pháp. Mặc dù công ty không nghĩ rằng cần yêu cầu giấy phép từ DBO nhưng chúng tôi đã thực hiện nó như một phần thỏa thuận”. Người phát ngôn của Afterpay cho biết thêm, công ty đã đăng ký và đã được cấp phép ở các tiểu bang khác.

Năm 2017, Klarna bị phạt 15.000 USD ở New Hampshire vì hoạt động mà không có giấy phép cho vay. Hiện tại, Klarna cũng có có giấy phép ở mọi tiểu bang của Hoa Kỳ.  

Thống kê tình hình dịch bệnh COVID-19

VIỆT NAM

1405

CA NHIỄM

35

CA TỬ VONG

1252

CA PHỤC HỒI

THẾ GIỚI

73.803.321

CA NHIỄM

1.641.440

CA TỬ VONG

51.813.957

CA PHỤC HỒI

Nơi khởi bệnh Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
Đà Nẵng 412 31 365
Hà Nội 174 0 167
Hồ Chí Minh 144 0 123
Quảng Nam 107 3 101
Bà Rịa - Vũng Tàu 69 0 65
Khánh Hòa 64 0 29
Bạc Liêu 50 0 48
Thái Bình 38 0 35
Hải Dương 32 0 29
Ninh Bình 32 0 28
Đồng Tháp 24 0 21
Hưng Yên 23 0 22
Thanh Hóa 21 0 19
Quảng Ninh 20 0 20
Bắc Giang 20 0 20
Hoà Bình 19 0 19
Vĩnh Phúc 19 0 19
Nam Định 15 0 15
Bình Dương 12 0 12
Cần Thơ 10 0 10
Bình Thuận 9 0 9
Bắc Ninh 8 0 8
Đồng Nai 7 0 4
Quảng Ngãi 7 0 7
Hà Nam 7 0 5
Quảng Trị 7 1 6
Tây Ninh 7 0 7
Trà Vinh 5 0 5
Lạng Sơn 4 0 4
Hà Tĩnh 4 0 4
Hải Phòng 3 0 3
Ninh Thuận 3 0 2
Thanh Hoá 3 0 2
Phú Thọ 3 0 3
Đắk Lắk 3 0 3
Thừa Thiên Huế 2 0 2
Lào Cai 2 0 2
Thái Nguyên 1 0 1
Cà Mau 1 0 1
Kiên Giang 1 0 1
Bến Tre 1 0 1
Lai Châu 1 0 1
Hà Giang 1 0 1
Quốc Gia Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
United States 17.143.779 311.068 10.007.853
India 9.932.908 144.130 9.455.793
Brazil 6.974.258 182.854 6.067.862
Russia 2.707.945 47.968 2.149.610
France 2.391.447 59.072 179.087
Turkey 1.898.447 16.881 1.661.191
United Kingdom 1.888.116 64.908 0
Italy 1.870.576 65.857 1.137.416
Spain 1.771.488 48.401 0
Argentina 1.510.203 41.204 1.344.300
Colombia 1.444.646 39.356 1.328.430
Germany 1.378.518 23.692 1.003.300
Mexico 1.267.202 115.099 938.089
Poland 1.147.446 23.309 879.748
Iran 1.123.474 52.670 833.276
Peru 987.675 36.817 922.314
Ukraine 909.082 15.480 522.868
South Africa 873.679 23.661 764.977
Indonesia 629.429 19.111 516.656
Netherlands 628.577 10.168 0
Belgium 609.211 18.054 41.700
Czech Republic 586.251 9.743 511.798
Iraq 577.363 12.614 511.639
Chile 575.329 15.949 548.190
Romania 565.758 13.698 465.050
Bangladesh 494.209 7.129 426.729
Canada 475.214 13.659 385.975
Philippines 451.839 8.812 418.867
Pakistan 443.246 8.905 386.333
Morocco 403.619 6.711 362.911
Switzerland 388.828 6.266 311.500
Israel 360.630 3.014 338.784
Saudi Arabia 360.155 6.069 350.993
Portugal 353.576 5.733 280.038
Sweden 341.029 7.667 0
Austria 327.679 4.648 287.750
Hungary 285.763 7.237 83.115
Serbia 277.248 2.433 31.536
Jordan 265.024 3.437 226.245
Nepal 250.180 1.730 238.569
Ecuador 202.356 13.896 177.951
Panama 196.987 3.411 164.855
Georgia 194.900 1.883 164.786
United Arab Emirates 187.267 622 165.023
Bulgaria 184.287 6.005 87.935
Azerbaijan 183.259 2.007 119.005
Japan 181.870 2.643 153.519
Croatia 179.718 2.778 155.079
Belarus 164.059 1.282 141.443
Dominican Republic 155.797 2.367 121.323
Costa Rica 154.096 1.956 121.031
Armenia 149.120 2.529 127.452
Lebanon 148.877 1.223 104.207
Bolivia 147.716 9.026 126.720
Kuwait 146.710 913 142.599
Kazakhstan 142.986 2.088 127.096
Qatar 141.272 241 138.919
Slovakia 135.523 1.251 100.303
Guatemala 130.082 4.476 118.793
Moldova 128.656 2.625 111.314
Oman 126.719 1.475 118.505
Greece 126.372 3.785 9.989
Egypt 122.609 6.966 105.450
Ethiopia 117.542 1.813 96.307
Denmark 116.087 961 82.099
Honduras 114.642 2.989 51.688
Palestine 113.409 1.023 88.967
Tunisia 113.241 3.956 86.801
Myanmar 110.667 2.319 89.418
Venezuela 108.480 965 103.271
Bosnia Herzegovina 102.330 3.457 67.649
Slovenia 98.281 2.149 75.017
Lithuania 96.452 863 41.665
Paraguay 95.353 1.991 67.953
Algeria 93.065 2.623 61.307
Kenya 92.459 1.604 73.979
Libya 92.017 1.319 62.144
Bahrain 89.444 348 87.490
China 86.770 4.634 81.821
Malaysia 86.618 422 71.681
Kyrgyzstan 77.910 1.316 70.867
Ireland 76.776 2.134 23.364
Uzbekistan 75.241 612 72.522
Macedonia 74.732 2.169 50.852
Nigeria 74.132 1.200 66.494
Singapore 58.341 29 58.233
Ghana 53.270 327 51.965
Albania 50.000 1.028 25.876
Afghanistan 49.703 2.001 38.500
South Korea 45.442 612 32.947
Luxembourg 42.250 418 33.486
Montenegro 42.148 597 32.097
El Salvador 42.132 1.212 38.260
Norway 41.852 395 34.782
Sri Lanka 34.121 154 24.867
Finland 31.459 466 20.000
Uganda 28.168 225 10.005
Australia 28.056 908 25.690
Latvia 26.472 357 17.477
Cameroon 25.359 445 23.851
Sudan 21.864 1.372 12.667
Ivory Coast 21.775 133 21.335
Estonia 18.682 157 11.669
Zambia 18.428 368 17.487
Madagascar 17.587 259 16.992
Senegal 17.216 350 16.243
Mozambique 17.042 144 15.117
Namibia 16.913 164 14.981
Angola 16.362 372 8.990
French Polynesia 15.870 97 4.842
Cyprus 15.789 84 2.057
Congo [DRC] 14.597 358 12.773
Guinea 13.457 80 12.713
Maldives 13.392 48 12.760
Botswana 12.873 38 10.456
Tajikistan 12.777 88 12.212
French Guiana 11.906 71 9.995
Jamaica 11.875 276 8.212
Zimbabwe 11.522 310 9.599
Mauritania 11.431 236 8.248
Cape Verde 11.395 110 11.055
Malta 11.303 177 9.420
Uruguay 10.418 98 6.895
Haiti 9.597 234 8.280
Cuba 9.588 137 8.592
Belize 9.511 211 4.514
Syria 9.452 543 4.494
Gabon 9.351 63 9.204
Réunion 8.534 42 8.037
Guadeloupe 8.524 154 2.242
Hong Kong 7.722 123 6.345
Bahamas 7.698 164 6.081
Andorra 7.382 79 6.706
Swaziland 6.912 132 6.476
Trinidad and Tobago 6.900 123 6.204
Rwanda 6.832 57 6.036
Democratic Republic Congo Brazzaville 6.200 100 4.988
Malawi 6.080 187 5.659
Guyana 5.973 156 5.144
Nicaragua 5.887 162 4.225
Mali 5.878 205 3.697
Djibouti 5.749 61 5.628
Mayotte 5.616 53 2.964
Martinique 5.575 42 98
Iceland 5.571 28 5.401
Suriname 5.381 117 5.231
Equatorial Guinea 5.195 85 5.061
Aruba 5.079 46 4.911
Central African Republic 4.936 63 1.924
Somalia 4.579 121 3.529
Burkina Faso 4.300 73 2.940
Thailand 4.246 60 3.949
Gambia 3.785 123 3.653
Curaçao 3.699 11 1.889
Togo 3.295 66 2.821
South Sudan 3.222 62 3.043
Benin 3.090 44 2.972
Sierra Leone 2.451 75 1.853
Guinea-Bissau 2.447 44 2.378
Niger 2.361 82 1.329
Lesotho 2.307 44 1.398
Channel Islands 2.192 48 1.339
New Zealand 2.100 25 2.032
Yemen 2.085 606 1.384
San Marino 1.982 52 1.685
Chad 1.784 102 1.611
Liberia 1.676 83 1.358
Liechtenstein 1.579 21 1.366
Vietnam 1.405 35 1.252
Sint Maarten 1.269 26 1.111
Gibraltar 1.104 6 1.040
Sao Tome and Principe 1.010 17 952
Mongolia 918 0 384
Saint Martin 801 12 675
Turks and Caicos 771 6 741
Taiwan 742 7 611
Burundi 735 1 640
Papua New Guinea 729 8 601
Diamond Princess 712 13 699
Eritrea 711 0 564
Monaco 678 3 609
Comoros 633 7 606
Faeroe Islands 530 0 506
Mauritius 524 10 489
Tanzania 509 21 183
Bermuda 456 9 247
Bhutan 438 0 404
Isle of Man 373 25 344
Cambodia 362 0 319
Cayman Islands 302 2 277
Barbados 297 7 273
Saint Lucia 278 4 240
Seychelles 202 0 184
Caribbean Netherlands 177 3 166
St. Barth 162 1 127
Brunei 152 3 147
Antigua and Barbuda 148 5 138
Saint Vincent and the Grenadines 98 0 81
Dominica 88 0 83
British Virgin Islands 76 1 72
Grenada 69 0 41
Fiji 46 2 38
Macau 46 0 46
Laos 41 0 34
New Caledonia 36 0 35
Timor-Leste 31 0 30
Saint Kitts and Nevis 28 0 23
Vatican City 27 0 15
Falkland Islands 23 0 17
Greenland 19 0 18
Solomon Islands 17 0 5
Saint Pierre Miquelon 14 0 14
Montserrat 13 1 12
Western Sahara 10 1 8
Anguilla 10 0 4
MS Zaandam 9 2 7
Marshall Islands 4 0 4
Wallis and Futuna 3 0 1
Samoa 2 0 2
Vanuatu 1 0 1
Dữ liệu trên được thống kê theo nguồn https://corona.kompa.ai/, https://ncov.moh.gov.vn/
NHẬT SANG
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement