Advertisement

Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

COVID-19 có thể khiến nền kinh tế thế giới thiệt hại hơn 1.000 tỷ USD

Sức khỏe

07/05/2020 23:13

Đó là cảnh báo của các chuyên gia kinh tế của hãng tư vấn Oxford Economics trước sự lây lan kinh khủng của "siêu bão" COVID-19.

Chỉ trong vài tháng qua, “siêu bão” mang tên COVID-19 với khởi điểm từ Vũ Hán (Trung Quốc) đã nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu với hơn 3,852 triệu ca mắc, khoảng 266.076 người tử vong (tính đến 21h45 ngày 7/5/2020) và danh sách này vẫn chưa dừng lại ở đó.

Các chuyên gia kinh tế của hãng tư vấn Oxford Economics đã lên tiếng cảnh báo đại dịch toàn cầu này có thể khiến nền kinh tế thế giới thiệt hại hơn 1.000 tỷ USD do năng suất lao động giảm, sản xuất đình trệ, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, đầu tư, thương mại và du lịch suy giảm nghiêm trọng...

    Một thương nhân mang theo hình nộm khi anh đóng cửa doanh nghiệp của mình trước những hạn chế kinh doanh do chính phủ đặt ra ở quận Eastleigh của Nairobi, Kenya. Ảnh: REUTERS  

Một thương nhân mang theo hình nộm khi anh đóng cửa doanh nghiệp của mình trước những hạn chế kinh doanh do chính phủ đặt ra ở quận Eastleigh của Nairobi, Kenya. Ảnh: REUTERS  

Kinh tế lao đao

Theo báo cáo kinh tế công bố ngày 29/4 của Chính phủ Mỹ, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này trong quý I/2020 giảm mạnh ở mức 4,8%, khi dịch COVID-19 đã buộc các doanh nghiệp phải đóng cửa, làm hạn chế hoạt động đầu tư và mua sắm. Đây là lần đầu tiên GDP của Mỹ giảm kể từ khi ghi nhận mức giảm 1,1% vào quý I/2014 và giảm theo quý mạnh nhất kể từ quý IV/2008, khi kinh tế nước này giảm 8,4%.

Trong khi đó, nền kinh tế Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã giảm 3,8% trong quý I/2020 khi hoạt động kinh doanh đình trệ do các doanh nghiệp phải đóng cửa nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19. Đây là mức sụt giảm lớn nhất của kinh tế Eurozone kể từ năm 1995.

Ngoài ra, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán tăng trưởng kinh tế năm 2020 của châu Á sẽ ngừng tăng trưởng lần đầu tiên trong 60 năm qua, khi cuộc khủng hoảng y tế do dịch COVID-19 đã gây ra thiệt hại “chưa từng có” đối với lĩnh vực dịch vụ của khu vực này. Kể cả kinh tế Trung Quốc, quốc gia đang bắt đầu nối lại các hoạt động kinh tế sớm hơn nhiều so với các nước khác, cũng chỉ có thể phục hồi chậm chạp, theo một cuộc khảo sát của hãng tin Reuters. 

Trước đó, theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, kinh tế nước này trong quý I/2020 đã giảm 6,8% so với cùng kỳ năm 2019, lần giảm đầu tiên trong gần ba thập niên, do các biện pháp ngăn chặn dịch bệnh khiến hoạt động kinh tế bị đình trệ.Hoạt động dịch vụ bị đứt gãy là một mối lo lớn đối với chính phủ nhiều nước, khi hàng triệu người đang làm việc cho các ngân hàng, các công ty bán lẻ và trong ngành nhà hàng-khách sạn, làm gia tăng mối đe dọa từ tỷ lệ thất nghiệp leo thang đối với sự ổn định xã hội.

Các nhà phân tích thuộc BofA Global Research ước tính, khoảng 7% số lao động (khoảng 20,7 triệu người) tại các nước ASEAN-6 gồm Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore, Philippines và Việt Nam có thể mất việc làm do tác động của dịch COVID-19. Viễn cảnh này cũng sẽ là mối đe dọa đối với sự phục hồi kinh tế khi dịch bệnh qua đi.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho biết, việc nhiều quốc gia ban hành các lệnh phong tỏa kinh tế-xã hội trên toàn cầu nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19 đã “giáng đòn mạnh” lên hoạt động du lịch thế giới, với ước tính sẽ suy giảm 45% trong năm nay.

    Mọi người đứng trên các điểm đánh dấu để giãn cách xã hội tại một đại lý xe hơi của Mercedes ở Brussels, Bỉ. Ảnh: REUTERS

Mọi người đứng trên các điểm đánh dấu để giãn cách xã hội tại một đại lý xe hơi của Mercedes ở Brussels, Bỉ. Ảnh: REUTERS

Cùng chung nhận định trên, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho biết dịch COVID-19 đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường lao động và sản lượng công nghiệp trên toàn thế giới, trong đó ngành du lịch và sản xuất ô tô bị tác động hết sức nặng nề. Đặc biệt, dịch bệnh ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng lên ngành du lịch và lữ hành – vốn đóng góp tới 3,2% GDP toàn cầu trong năm 2018.

Nếu tính cả các ngành công nghiệp thứ cấp liên quan, con số đó có thể lên tới 10,4% GDP toàn cầu vào cùng giai đoạn. Chỉ riêng ngành du lịch của Liên minh châu Âu (EU) đã ước tính sẽ mất khoảng 1 tỷ euro (1,1 tỷ USD) doanh thu mỗi tháng do dịch COVID-19.

Ngoài ra, ILO trích dẫn các số liệu cho thấy lĩnh vực này chiếm tới 319 triệu việc làm trên toàn thế giới (tương đương 10% việc làm toàn cầu) vào năm 2018. Tuy vậy, mức trên có thể suy giảm từ 45-70% do ảnh hưởng của dịch COVID-19. 

Trong khi đó, Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA) cho biết doanh thu của ngành hàng không dự kiến sẽ giảm khoảng 55%, tương ứng 314 tỷ USD trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Đây là dự báo tồi tệ nhất đối với ngành hàng không, khi chỉ mới trước đó ba tuần, doanh thu của ngành được dự báo giảm 44% (tương đương 252 tỷ USD).

Ngân hàng Thế giới (WB) ngày 22/4 cho biết, các nước đang phát triển đang mất đi một nguồn thu quan trọng, khi các biện pháp phong tỏa trên toàn cầu nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch COVID-19 đã khiến lượng kiều hối giảm mạnh.

WB nhận định lượng kiều hối trên toàn cầu dự kiến sẽ giảm khoảng 20% trong năm 2020, mức giảm lớn nhất trong lịch sử gần đây, do việc các doanh nghiệp ngừng hoạt động gây ra tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu và mất việc làm khiến người lao động ở nước ngoài không thể gửi tiền về nhà. Tổng số kiều hối trong năm 2020 dự kiến sẽ giảm xuống còn 440 tỷ USD, từ mức 554 tỷ USD năm 2019.

Cùng chung tình cảnh có kết quả kinh doanh “bết bát” do dịch bệnh của nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới, tập đoàn dầu khí hàng đầu của Mỹ Occidental Petroleum Corp ngày 5/5 vừa qua thông báo thua lỗ lớn trong quý I/2020, và tập đoàn phải lần thứ 3 điều chỉnh cắt giảm ngân sách kể từ tháng Ba nhằm đối phó với tình trạng giá dầu giảm mạnh. Theo đó, Occidental Petroleum lỗ ròng 2,23 tỷ USD trong quý I/2020, trái ngược hoàn toàn so với cùng kỳ năm trước khi tập đoàn ghi nhận mức lợi nhuận 631 triệu USD.

    Một người phụ nữ duy nhất sử dụng thang cuốn trong khu thương mại yên tĩnh vào ngày làm việc đầu tiên sau kỳ nghỉ Tuần lễ vàng, tại Tokyo, Nhật Bản. Ảnh: REUTERS 

Một người phụ nữ duy nhất sử dụng thang cuốn trong khu thương mại yên tĩnh vào ngày làm việc đầu tiên sau kỳ nghỉ Tuần lễ vàng, tại Tokyo, Nhật Bản. Ảnh: REUTERS 

Giải pháp ứng phó

Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc (LHQ) phụ trách các vấn đề nhân đạo Mark Lowcock ngày 28/4 cho biết phần lớn các chuyên gia đều đồng ý rằng dịch COVID-19 vẫn chưa đạt “đỉnh" ở các nước nghèo nhất thế giới, nhưng có thể diễn biến đến mức này trong 3-6 tháng tới. Ông cho biết khoảng 700 triệu người, tức 10% dân số thế giới, là đối tượng dễ bị tổn thương nhất và tập trung ở khoảng 30-40 nước.

Thu nhập của người dân ở các nước này sẽ giảm mạnh giữa lúc dịch bệnh lây lan nhanh và chính phủ các nước áp đặt nhiều biện pháp hạn chế và phong tỏa.Theo ông Lowcock, để bảo vệ những người này trước sự sụt giảm thu nhập nói trên có thể cần khoảng 60 tỷ USD, và với khoảng 30 tỷ USD nữa, những người có nguy cơ chết đói có thể được cung cấp thực phẩm và các biện pháp chăm sóc y tế trước dịch COVID-19.

Ông Lowcock cho biết 2/3 trong số tiền 90 tỷ USD này có thể đến từ các thể chế tài chính quốc tế như WB và IMF, và 1/3 còn lại có thể có được từ sự gia tăng một lần khoản hỗ trợ phát triển của chính phủ các nước.

Trong khi đó, EU ngày 27/4 thông báo đang huy động 350 triệu euro (378 triệu USD) nhằm hỗ trợ các thành viên ASEAN trong cuộc chiến chống dịch COVID-19. Đại sứ EU tại ASEAN Igor Driesmans nhấn mạnh ASEAN “có thể tin tưởng” vào EU trong những lúc khó khăn.

Nhà ngoại giao này cho biết EU và ASEAN là hai tổ chức khu vực có 42 năm “đoàn kết và hợp tác” và việc huy động 350 triệu euro hỗ trợ các nước ASEAN thể hiện “tình hữu nghị” của EU đối với người dân trong khu vực. Nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác toàn cầu nhằm giải quyết khủng hoảng này, Đại sứ Driesmans khẳng định thế giới chỉ có thể vượt qua dịch COVID-19 thông qua hợp tác, đoàn kết và phối hợp quốc tế.

Trước những ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19, Bộ Tài chính Mỹ đang lên chi tiết cho kế hoạch vay kỷ lục 2.990 tỷ USD trong quý II/2020, trong đó bao gồm việc phát hành trái phiếu kỳ hạn 20 năm lần đầu tiên kể từ năm 1986. Bộ Tài chính Mỹ đang đứng trước nhu cầu tín dụng lớn chưa từng có khi chính phủ đang chi hàng nghìn tỷ USD để ứng phó với tác động của dịch COVID-19, với hàng triệu người mất việc làm và kinh tế Mỹ có thể rơi vào suy thoái sâu. 

    Những người mất việc xếp hàng chờ nộp đơn thất nghiệp sau khi bùng phát bệnh coronavirus (COVID-19), tại Trung tâm lực lượng lao động Arkansas ở Fayetteville, Arkansas, Mỹ ngày 6/4/2020. Ảnh: REUTERS

Những người mất việc xếp hàng chờ nộp đơn thất nghiệp sau khi bùng phát bệnh coronavirus (COVID-19), tại Trung tâm lực lượng lao động Arkansas ở Fayetteville, Arkansas, Mỹ ngày 6/4/2020. Ảnh: REUTERS

Trước đó, Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) cam kết sẽ cùng hành động để giảm bớt thiệt hại kinh tế của dịch COVID-19 đối với ngành du lịch toàn cầu, một trong những ngành công nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch bệnh này và khiến hàng triệu người có nguy cơ mất việc.

Về phần mình, các quan chức đứng đầu IMF, Cơ chế Bình ổn châu Âu (ESM) và các cơ chế tài chính khu vực khác ngày 21/4 đã nhất trí phối hợp hành động nhằm giảm thiểu các tác động kinh tế và tài chính của dịch COVID-19, nhất là đối với các quốc gia và người dân dễ bị tổn thương nhất.

Trong một thông báo chung đưa ra tại một hội nghị truyền hình, các quan chức trên cho biết đã nhất trí phối hợp trong việc triển khai các hoạt động tài chính chung nhằm đáp ứng nhu cầu của các thành viên. Theo thông báo này, “những tình huống chưa từng có đang xảy ra hiện nay đòi hỏi phải có những hành động ứng phó chưa từng có”. Ngoài việc trao đổi thông tin về nhu cầu của các thành viên, những cơ quan và cơ chế trên cho hay sẽ tìm cách phối hợp hỗ trợ ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.

Còn ở cấp độ doanh nghiệp, hãng chế tạo máy bay Boeing (Mỹ) ngày 29/4 thông báo một loạt biện pháp cắt giảm chi phí "mạnh tay" sau khi ghi nhận khoản lỗ 641 triệu USD trong quý I/2020 do tác động tiêu cực từ dịch COVID-19. Giám đốc điều hành Boeing David Calhoun cho biết hãng này dự định cắt giảm 10% lực lượng lao động thông qua cơ chế cho người lao động tự nguyện nghỉ việc và sa thải. Ngoài ra, Boeing cũng sẽ cắt giảm sản lượng các dòng máy bay thương mại chủ chốt, trong đó có 787 và 777.

Dòng người dài "vô tận" chờ nhận đồ ăn ở Nam Phi
 

Thống kê tình hình dịch bệnh COVID-19

VIỆT NAM

1405

CA NHIỄM

35

CA TỬ VONG

1252

CA PHỤC HỒI

THẾ GIỚI

73.924.637

CA NHIỄM

1.644.458

CA TỬ VONG

51.921.206

CA PHỤC HỒI

Nơi khởi bệnh Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
Đà Nẵng 412 31 365
Hà Nội 174 0 167
Hồ Chí Minh 144 0 123
Quảng Nam 107 3 101
Bà Rịa - Vũng Tàu 69 0 65
Khánh Hòa 64 0 29
Bạc Liêu 50 0 48
Thái Bình 38 0 35
Hải Dương 32 0 29
Ninh Bình 32 0 28
Đồng Tháp 24 0 21
Hưng Yên 23 0 22
Thanh Hóa 21 0 19
Quảng Ninh 20 0 20
Bắc Giang 20 0 20
Hoà Bình 19 0 19
Vĩnh Phúc 19 0 19
Nam Định 15 0 15
Bình Dương 12 0 12
Cần Thơ 10 0 10
Bình Thuận 9 0 9
Bắc Ninh 8 0 8
Đồng Nai 7 0 4
Quảng Ngãi 7 0 7
Hà Nam 7 0 5
Quảng Trị 7 1 6
Tây Ninh 7 0 7
Trà Vinh 5 0 5
Lạng Sơn 4 0 4
Hà Tĩnh 4 0 4
Hải Phòng 3 0 3
Ninh Thuận 3 0 2
Thanh Hoá 3 0 2
Phú Thọ 3 0 3
Đắk Lắk 3 0 3
Thừa Thiên Huế 2 0 2
Lào Cai 2 0 2
Thái Nguyên 1 0 1
Cà Mau 1 0 1
Kiên Giang 1 0 1
Bến Tre 1 0 1
Lai Châu 1 0 1
Hà Giang 1 0 1
Quốc Gia Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
United States 17.143.942 311.073 10.007.956
India 9.932.908 144.130 9.456.449
Brazil 6.974.258 182.854 6.067.862
Russia 2.734.454 48.564 2.176.100
France 2.391.447 59.072 179.087
Turkey 1.898.447 16.881 1.661.191
United Kingdom 1.888.116 64.908 0
Italy 1.870.576 65.857 1.137.416
Spain 1.771.488 48.401 0
Argentina 1.510.203 41.204 1.344.300
Colombia 1.444.646 39.356 1.328.430
Germany 1.378.518 23.692 1.003.300
Mexico 1.267.202 115.099 938.089
Poland 1.159.901 23.914 892.650
Iran 1.131.077 52.883 844.430
Peru 987.675 36.817 922.314
Ukraine 919.704 15.744 535.417
South Africa 873.679 23.661 764.977
Indonesia 636.154 19.248 521.984
Netherlands 628.577 10.168 0
Belgium 611.422 18.178 41.973
Czech Republic 594.148 9.882 516.786
Iraq 577.363 12.614 511.639
Chile 575.329 15.949 548.190
Romania 565.758 13.698 465.050
Bangladesh 495.841 7.156 429.351
Canada 475.214 13.659 385.975
Philippines 452.988 8.833 419.282
Pakistan 445.977 9.010 388.598
Morocco 403.619 6.711 362.911
Switzerland 394.453 6.295 311.500
Israel 363.287 3.030 340.145
Saudi Arabia 360.155 6.069 350.993
Portugal 353.576 5.733 280.038
Sweden 341.029 7.667 0
Austria 330.343 4.764 291.042
Hungary 288.567 7.381 83.940
Serbia 277.248 2.433 31.536
Jordan 265.024 3.437 226.245
Nepal 250.916 1.743 238.569
Ecuador 202.356 13.896 177.951
Georgia 198.387 1.922 167.281
Panama 196.987 3.411 164.855
United Arab Emirates 188.545 626 165.749
Azerbaijan 187.336 2.050 122.859
Bulgaria 184.287 6.005 87.935
Croatia 183.045 2.870 157.773
Japan 181.870 2.643 153.519
Belarus 164.059 1.282 141.443
Dominican Republic 155.797 2.367 121.323
Costa Rica 154.096 1.956 121.031
Armenia 150.218 2.556 128.694
Lebanon 148.877 1.223 104.207
Bolivia 147.716 9.026 126.720
Kuwait 146.710 913 142.599
Kazakhstan 143.735 2.147 128.218
Qatar 141.272 241 138.919
Slovakia 139.088 1.309 101.584
Guatemala 130.082 4.476 118.793
Moldova 128.656 2.625 111.314
Oman 126.835 1.480 118.736
Greece 126.372 3.785 9.989
Egypt 122.609 6.966 105.450
Ethiopia 117.542 1.813 96.307
Denmark 116.087 961 82.099
Honduras 114.943 3.001 52.392
Palestine 113.409 1.023 88.967
Tunisia 113.241 3.956 86.801
Myanmar 110.667 2.319 89.418
Venezuela 108.480 965 103.271
Bosnia Herzegovina 102.330 3.457 67.649
Slovenia 100.389 2.190 77.453
Lithuania 99.869 907 43.379
Paraguay 95.353 1.991 67.953
Algeria 93.065 2.623 61.307
Kenya 92.459 1.604 73.979
Libya 92.017 1.319 62.144
Bahrain 89.444 349 87.490
Malaysia 87.913 429 72.733
China 86.770 4.634 81.821
Kyrgyzstan 78.151 1.317 71.270
Ireland 76.776 2.134 23.364
Uzbekistan 75.396 612 72.661
Macedonia 74.732 2.169 50.852
Nigeria 74.132 1.200 66.494
Singapore 58.353 29 58.233
Ghana 53.386 327 52.048
Albania 50.000 1.028 25.876
Afghanistan 49.970 2.017 38.648
South Korea 45.442 612 32.947
El Salvador 42.397 1.219 38.481
Luxembourg 42.250 418 33.486
Montenegro 42.148 597 32.097
Norway 41.852 395 34.782
Sri Lanka 34.121 157 25.652
Finland 31.870 466 20.000
Uganda 28.168 225 10.005
Australia 28.056 908 25.690
Latvia 26.472 357 17.477
Cameroon 25.359 445 23.851
Sudan 21.864 1.372 12.667
Ivory Coast 21.775 133 21.335
Estonia 19.271 160 12.117
Zambia 18.428 368 17.487
Madagascar 17.587 259 16.992
Senegal 17.336 352 16.349
Mozambique 17.042 144 15.117
Namibia 16.913 164 14.981
Angola 16.362 372 8.990
French Polynesia 15.870 97 4.842
Cyprus 15.789 84 2.057
Congo [DRC] 14.597 358 12.773
Guinea 13.474 80 12.727
Maldives 13.392 48 12.760
Botswana 12.873 38 10.456
Tajikistan 12.777 88 12.212
French Guiana 11.906 71 9.995
Jamaica 11.875 276 8.212
Zimbabwe 11.522 310 9.599
Mauritania 11.431 236 8.248
Cape Verde 11.395 110 11.055
Malta 11.303 177 9.420
Uruguay 10.418 98 6.895
Haiti 9.597 234 8.280
Cuba 9.588 137 8.592
Belize 9.511 211 4.514
Syria 9.452 543 4.494
Gabon 9.351 63 9.204
Réunion 8.534 42 8.037
Guadeloupe 8.524 154 2.242
Hong Kong 7.804 123 6.439
Bahamas 7.698 164 6.081
Andorra 7.382 79 6.706
Swaziland 6.912 132 6.476
Trinidad and Tobago 6.900 123 6.204
Rwanda 6.832 57 6.036
Democratic Republic Congo Brazzaville 6.200 100 4.988
Malawi 6.080 187 5.659
Guyana 5.973 156 5.144
Nicaragua 5.887 162 4.225
Mali 5.878 205 3.697
Djibouti 5.749 61 5.628
Mayotte 5.616 53 2.964
Martinique 5.575 42 98
Iceland 5.571 28 5.401
Suriname 5.381 117 5.231
Equatorial Guinea 5.195 85 5.061
Aruba 5.079 46 4.911
Central African Republic 4.936 63 1.924
Somalia 4.579 121 3.529
Burkina Faso 4.300 73 2.940
Thailand 4.261 60 3.977
Gambia 3.785 123 3.653
Curaçao 3.699 11 1.889
Togo 3.295 66 2.821
South Sudan 3.222 62 3.043
Benin 3.090 44 2.972
Sierra Leone 2.451 75 1.853
Guinea-Bissau 2.447 44 2.378
Niger 2.361 82 1.329
Lesotho 2.307 44 1.398
Channel Islands 2.192 48 1.339
New Zealand 2.100 25 2.032
Yemen 2.085 606 1.384
San Marino 1.982 52 1.685
Chad 1.784 102 1.611
Liberia 1.676 83 1.358
Liechtenstein 1.579 21 1.366
Vietnam 1.405 35 1.252
Sint Maarten 1.269 26 1.111
Gibraltar 1.104 6 1.040
Sao Tome and Principe 1.010 17 952
Mongolia 918 0 384
Saint Martin 801 12 675
Turks and Caicos 771 6 741
Taiwan 749 7 612
Burundi 735 1 640
Papua New Guinea 729 8 601
Diamond Princess 712 13 699
Eritrea 711 0 564
Monaco 678 3 609
Comoros 633 7 606
Faeroe Islands 530 0 506
Mauritius 524 10 489
Tanzania 509 21 183
Bermuda 456 9 247
Bhutan 439 0 408
Isle of Man 373 25 344
Cambodia 362 0 319
Cayman Islands 302 2 277
Barbados 297 7 273
Saint Lucia 278 4 240
Seychelles 202 0 184
Caribbean Netherlands 177 3 166
St. Barth 162 1 127
Brunei 152 3 148
Antigua and Barbuda 148 5 138
Saint Vincent and the Grenadines 98 0 81
Dominica 88 0 83
Grenada 85 0 41
British Virgin Islands 76 1 72
Fiji 46 2 38
Macau 46 0 46
Laos 41 0 34
New Caledonia 37 0 35
Timor-Leste 31 0 30
Saint Kitts and Nevis 28 0 23
Vatican City 27 0 15
Falkland Islands 23 0 17
Greenland 19 0 18
Solomon Islands 17 0 5
Saint Pierre Miquelon 14 0 14
Montserrat 13 1 12
Western Sahara 10 1 8
Anguilla 10 0 4
MS Zaandam 9 2 7
Marshall Islands 4 0 4
Wallis and Futuna 3 0 1
Samoa 2 0 2
Vanuatu 1 0 1
Dữ liệu trên được thống kê theo nguồn https://corona.kompa.ai/, https://ncov.moh.gov.vn/

(Nguồn: TTXVN)

CHẤN HƯNG
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement