Advertisement

icon icon img
Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

Hứng chịu làn sóng COVID-19 thứ hai, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng nhanh thứ 5 thế giới

Kinh tế thế giới

30/07/2020 17:42

Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo có khả năng hấp thụ cú sốc từ COVID-19 tốt, tốc độ tăng GDP vẫn dương 2,8%.

Ngân hàng Thế giới (World Bank) vừa đưa ra báo cáo Tác động kinh tế của COVID-19: Trạng thái bình thường mới ở Việt Nam sẽ ra sao? Buổi công bố được tổ chức trực tuyến với sự tham gia của bà Stefanie Stallmeister, Quyền Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam và Jacques Morisset, Nhà kinh tế trưởng và lãnh đạo chương trình tại WB.

COVID-19 là vết sẹo khó phai

WB cho biết, nền kinh tế toàn cầu đã rơi vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong vài thập kỷ qua. GDP toàn cầu dự kiến suy giảm 5,2% trong năm 2020 do đại dịch COVID-19 và do các biện pháp được tiến hành để kiềm chế dịch bệnh theo thời gian. Ngoại trừ khu vực Đông Á, tất cả đều đưa ra báo cáo tăng trưởng GDP âm trong năm 2020. Tương tự, chỉ có 57/191 quốc gia dự kiến có tăng trưởng GDP từ năm 2019 đến năm 2020, thấp hơn con số 171 cách đây một năm. 

Dù có phần lạc quan hơn nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng đáng kể bởi khủng hoảng COVID-19 khi tốc độ tăng trưởng GDP nửa đầu năm 2020 chỉ đạt 1,8%. Đây là mức thấp nhất trong ba thập kỷ qua.

Vào thời điểm có nhiều bất định, các doanh nghiệp và hộ gia đình phải đối mặt với hạn chế về dòng tiền. Vì vậy, họ phải giới hạn các kế hoạch đầu tư và tiêu dùng. Tốc độ tăng tổng đầu tư theo giá hiện hành giảm còn 3,4% trong nửa đầu năm 2020 so với 10,2% trong cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng đầu tư tư nhân giảm đà còn 4,6% so với 16,5% vì nhiều doanh nghiệp bắt đầu phải đối mặt với bất định và hạn chế về dòng tiền. 

Bên cạnh đó, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, khoảng 8 triệu người lao động có thời điểm bị mất việc làm trong những tháng qua, ngoài ra còn có thêm 17 triệu người khác bị cắt giảm thời gian làm việc hoặc thu nhập. Chính phủ ước tính, thu nhập tháng bình quân của người lao động trong quý II/2020 giảm khoảng 5% so với cùng kỳ năm 2019.

Khảo sát hộ gia đình gần đây do WB phối hợp với Tổng cục Thống kê tiến hành trong nửa cuối tháng 6 cũng cho thấy ảnh hưởng từ COVID-19 rất lớn. Khoảng 3/4 các hộ gia đình cho biết có lúc bị mất thu nhập từ tháng 2, chủ yếu do mất việc làm và giảm thu nhập làm công ăn lương hoặc kinh doanh cá thể.

“Đại dịch cũng để lại những vết sẹo khó phai, nhất là với những người dân và doanh nghiệp thiếu chuẩn bị nhất cho cú sốc như lần này”, đơn vị này nhận định.

GDP Việt Nam ở mức 2,8%?

Tuy nhiên, theo WB, nền kinh tế Việt Nam đã bị tổn thương nhưng vẫn thuộc dạng năng động nhất trên thế giới. Tổ chức này vẫn giữ nguyên mức dương trong dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam cả năm nay, ở mức 2,8%. Đây là mức tăng trưởng kinh tế nhanh thứ 5 thế giới, chỉ sau một nhóm nhỏ các quốc gia ở châu Phi.

Tốc độ tăng trưởng sẽ tiếp tục được nâng lên đến 6,8% vào năm 2021, theo kịch bản cơ sở. Trong trường hợp tình hình bên ngoài kém thuận lợi, nền kinh tế Việt Nam sẽ chỉ đạt tăng trưởng lần lượt ở mức 1,5% vào năm 2020 và 4,5% vào năm 2021, theo kịch bản xấu hơn.

“Nhìn chung, chúng tôi vãn rất lạc quan về kinh tế Việt Nam và những con số cũng đã nói lên điều này. Việc trở thành nước tăng trưởng nhanh thứ 5 thế giới là một thành tựu lớn. Cho dù theo kịch bản gì thì Việt Nam vẫn được cho là một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất trên thế giới vào năm 2020”, bà Stefanie, Quyền Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam, nhấn mạnh.

Giải thích cho quan điểm lạc quan, ông Jacques Morisset, Nhà kinh tế trưởng và lãnh đạo chương trình tại WB, cho rằng, Việt Nam là một quốc gia khoẻ mạnh nên dù GDP giảm tới 7% nhưng vẫn là một “cơ thể” có khả năng hấp thụ tốt cú sốc từ dịch COVID-19.

“Việt Nam đi trước rất nhiều so với các nước trong việc phòng chống dịch. Đi khắp Việt Nam, chúng ta sẽ thấy nhiều cửa hàng mở cửa thoải mái, một hình ảnh rất lạ. Việt Nam sẽ là một quốc gia để các doanh nghiệp đa dạng hoá lãnh thổ. Và Việt Nam nên tận dụng việc này là hình ảnh để quảng bá với các nhà đầu tư ngoại”, ông nhận xét.

Vị này đề xuất, để đón làn sóng đầu tư FDI chuyển dịch trong xu hướng “thoái Trung”, Việt Nam cần chủ động hơn nữa. Theo ông, các doanh nghiệp FDI luôn thích địa điểm có sẵn nguồn cung ứng chất lượng và nguồn lao động tay nghề cao. Đây là điểm cần cải thiện để tận dụng cơ hội tốt.

Theo WB, thời gian qua, Chính phủ đã có những biện pháp hữu hiệu để nâng đỡ nền kinh tế quốc dân. Nhưng đơn vị này đề xuất, Chính phủ nên dồn lực hỗ trợ 3 ngành: du lịch - giải trí, vận tải, công nghiệp chế tạo. “Chính phủ nên hỗ trợ các doanh nghiệp một cách có mục tiêu vì không phải doanh nghiệp nào cũng chịu ảnh hưởng bởi COVID-19 như nhau. Vẫn có 1 số ngành nghề hoạt động tốt”, ông nói thêm.

Vẫn là ngôi sao sáng dù có làn sóng dịch thứ hai

Báo cáo của WB đưa ra giữa lúc làn sóng bùng phát dịch COVID-19 lần thứ hai đang dần lộ rõ, số ca nhiễm ngoài cộng đồng ngày càng tăng. Khi được hỏi về sức ảnh hưởng của đợt bùng phát này tới tăng trưởng GDP, ông Jacques đáp: “Đây là một câu hỏi khó. Dựa trên những gì chúng ta chứng kiến vào tháng 4 và tình hình các nước thế giới, khi chúng ta đóng cửa tất cả mọi thứ, rõ ràng tổn thất kinh tế sẽ rất lớn”.

Song, ông vẫn lạc quan vì tình trạng 30 triệu người dân bị ảnh hưởng bởi COVID-19 chỉ dồn vào gian đoạn 3 tuần giãn cách xã hội. Sau đó, sự phục hồi đã đến rất nhanh. “Tôi cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam có sức chống chịu rất tốt, người dân cũng có sẵn tính tiết kiệm và thích nghi cao”, ông nói.

Ông Jacques Morisset lạc quan về tình hình của Việt Nam giữa đợt bùng phát dịch thứ hai.
Ông Jacques Morisset lạc quan về tình hình của Việt Nam giữa đợt bùng phát dịch thứ hai.

Tuy nhiên, vị này vẫn lưu ý: “Nhưng khi có lệnh giãn cách xã hội lần thứ hai, tôi không chắc sức chịu đựng của chúng ta vẫn cao như thế. Tôi tin rằng, Chính phủ sẽ cân nhắc mọi thứ”.

Hồi cuối tháng 5, WB có nhận định: “Việt Nam là ngôi sao sáng trên bầu trời COVID-19 tăm tối”. Đến nay, Quyền Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam vẫn giữ nguyên quan điểm. “Tôi nghĩ nhận định trên của WB vẫn còn đúng. Dù chưa rõ tình hình mai sau, nhưng ít nhất đến hiện tại Việt Nam vẫn là ngôi sao sáng”.

Bổ sung thêm, ông Jacques dự đoán: “Không những là một ngôi sao sáng, chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam còn có chính sách ứng phó tốt hơn với đại dịch. Việt Nam có cơ hội và nền tảng cơ bản tốt để phát triển lên nền kinh tế số, không cần tiếp xúc”.

Ông giải thích thêm, phần lớn người dân đang dùng điện thoại thông minh, kể cả người nghèo. Thêm vào đó, Chính phủ cũng dang nâng cấp hạ tầng viễn thông, tuy vẫn còn sự chênh lệch giữa các vùng miền. Đây là hai yếu tố căn bản cho nền kinh tế số, nền kinh tế không cần tiếp xúc phát triển.

Người dân và doanh nghiệp Việt Nam có tính thích nghi cao. Ảnh: Tất Đạt
Người dân và doanh nghiệp Việt Nam có tính thích nghi cao. Ảnh: Tất Đạt

Tuy nhiên, một số vấn đề cho tương lai này vẫn tồn đọng. Hiện nay 2/3 người dân đang không có tài khoản ngân hàng. Việc thanh toán điện tử là yếu tố quan trọng cho nền kinh tế số. Đây là thứ Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa để có thành tựu tốt hơn.

Báo cáo của WB đưa ra luận điểm rằng, Việt Nam không nên tư duy theo hướng trạng thái bình thường sẽ quay lại như cũ, mà nên xác định xem trạng thái bình thường mới sẽ ra sao, khi đại dịch làm thay đổi cách thức mọi người sinh sống, làm việc và giao tiếp trên nhiều góc độ khác nhau.

“Việt Nam đang kiểm soát dịch tốt nên đây có thể là ‘trong nguy có cơ’ để Việt Nam vươn lên vị trí cao hơn về kinh tế. Cần tận dụng cơ hội này để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình”, bà Stefanie nhấn mạnh.

Bổ sung thêm, ông Jacques cho rằng, Việt Nam đang có tinh thần rất khẩn trương trong việc hành động khôi phục kinh tế. Nhưng để bền vững, Việt Nam phải dịch chuyển từ tăng trưởng dựa vào số lượng sang tăng trưởng dựa vào chất lượng.

“Tăng trưởng dựa vào số lượng là cách của nước nghèo, khi tiến sang nước thu nhập trung bình và cao, đó là điều nguy hiểm, nhất là với môi trường”, ông lưu ý.

WB cho rằng, Nhà nước cần chủ động nỗ lực hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Trong trạng thái bình thường mới, Chính phủ cần quan tâm sát sao đến tình trạng bất bình đẳng tăng lên. “Kinh tế Việt Nam không chỉ tăng trưởng nhanh mà còn bình đẳng. Nhưng COVID-19 đã đem lại sự bất bình đẳng mới”, ông Jacques cảnh báo.

Thống kê tình hình dịch bệnh COVID-19

VIỆT NAM

1405

CA NHIỄM

35

CA TỬ VONG

1252

CA PHỤC HỒI

THẾ GIỚI

73.803.321

CA NHIỄM

1.641.440

CA TỬ VONG

51.813.957

CA PHỤC HỒI

Nơi khởi bệnh Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
Đà Nẵng 412 31 365
Hà Nội 174 0 167
Hồ Chí Minh 144 0 123
Quảng Nam 107 3 101
Bà Rịa - Vũng Tàu 69 0 65
Khánh Hòa 64 0 29
Bạc Liêu 50 0 48
Thái Bình 38 0 35
Hải Dương 32 0 29
Ninh Bình 32 0 28
Đồng Tháp 24 0 21
Hưng Yên 23 0 22
Thanh Hóa 21 0 19
Quảng Ninh 20 0 20
Bắc Giang 20 0 20
Hoà Bình 19 0 19
Vĩnh Phúc 19 0 19
Nam Định 15 0 15
Bình Dương 12 0 12
Cần Thơ 10 0 10
Bình Thuận 9 0 9
Bắc Ninh 8 0 8
Đồng Nai 7 0 4
Quảng Ngãi 7 0 7
Hà Nam 7 0 5
Quảng Trị 7 1 6
Tây Ninh 7 0 7
Trà Vinh 5 0 5
Lạng Sơn 4 0 4
Hà Tĩnh 4 0 4
Hải Phòng 3 0 3
Ninh Thuận 3 0 2
Thanh Hoá 3 0 2
Phú Thọ 3 0 3
Đắk Lắk 3 0 3
Thừa Thiên Huế 2 0 2
Lào Cai 2 0 2
Thái Nguyên 1 0 1
Cà Mau 1 0 1
Kiên Giang 1 0 1
Bến Tre 1 0 1
Lai Châu 1 0 1
Hà Giang 1 0 1
Quốc Gia Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
United States 17.143.779 311.068 10.007.853
India 9.932.908 144.130 9.455.793
Brazil 6.974.258 182.854 6.067.862
Russia 2.707.945 47.968 2.149.610
France 2.391.447 59.072 179.087
Turkey 1.898.447 16.881 1.661.191
United Kingdom 1.888.116 64.908 0
Italy 1.870.576 65.857 1.137.416
Spain 1.771.488 48.401 0
Argentina 1.510.203 41.204 1.344.300
Colombia 1.444.646 39.356 1.328.430
Germany 1.378.518 23.692 1.003.300
Mexico 1.267.202 115.099 938.089
Poland 1.147.446 23.309 879.748
Iran 1.123.474 52.670 833.276
Peru 987.675 36.817 922.314
Ukraine 909.082 15.480 522.868
South Africa 873.679 23.661 764.977
Indonesia 629.429 19.111 516.656
Netherlands 628.577 10.168 0
Belgium 609.211 18.054 41.700
Czech Republic 586.251 9.743 511.798
Iraq 577.363 12.614 511.639
Chile 575.329 15.949 548.190
Romania 565.758 13.698 465.050
Bangladesh 494.209 7.129 426.729
Canada 475.214 13.659 385.975
Philippines 451.839 8.812 418.867
Pakistan 443.246 8.905 386.333
Morocco 403.619 6.711 362.911
Switzerland 388.828 6.266 311.500
Israel 360.630 3.014 338.784
Saudi Arabia 360.155 6.069 350.993
Portugal 353.576 5.733 280.038
Sweden 341.029 7.667 0
Austria 327.679 4.648 287.750
Hungary 285.763 7.237 83.115
Serbia 277.248 2.433 31.536
Jordan 265.024 3.437 226.245
Nepal 250.180 1.730 238.569
Ecuador 202.356 13.896 177.951
Panama 196.987 3.411 164.855
Georgia 194.900 1.883 164.786
United Arab Emirates 187.267 622 165.023
Bulgaria 184.287 6.005 87.935
Azerbaijan 183.259 2.007 119.005
Japan 181.870 2.643 153.519
Croatia 179.718 2.778 155.079
Belarus 164.059 1.282 141.443
Dominican Republic 155.797 2.367 121.323
Costa Rica 154.096 1.956 121.031
Armenia 149.120 2.529 127.452
Lebanon 148.877 1.223 104.207
Bolivia 147.716 9.026 126.720
Kuwait 146.710 913 142.599
Kazakhstan 142.986 2.088 127.096
Qatar 141.272 241 138.919
Slovakia 135.523 1.251 100.303
Guatemala 130.082 4.476 118.793
Moldova 128.656 2.625 111.314
Oman 126.719 1.475 118.505
Greece 126.372 3.785 9.989
Egypt 122.609 6.966 105.450
Ethiopia 117.542 1.813 96.307
Denmark 116.087 961 82.099
Honduras 114.642 2.989 51.688
Palestine 113.409 1.023 88.967
Tunisia 113.241 3.956 86.801
Myanmar 110.667 2.319 89.418
Venezuela 108.480 965 103.271
Bosnia Herzegovina 102.330 3.457 67.649
Slovenia 98.281 2.149 75.017
Lithuania 96.452 863 41.665
Paraguay 95.353 1.991 67.953
Algeria 93.065 2.623 61.307
Kenya 92.459 1.604 73.979
Libya 92.017 1.319 62.144
Bahrain 89.444 348 87.490
China 86.770 4.634 81.821
Malaysia 86.618 422 71.681
Kyrgyzstan 77.910 1.316 70.867
Ireland 76.776 2.134 23.364
Uzbekistan 75.241 612 72.522
Macedonia 74.732 2.169 50.852
Nigeria 74.132 1.200 66.494
Singapore 58.341 29 58.233
Ghana 53.270 327 51.965
Albania 50.000 1.028 25.876
Afghanistan 49.703 2.001 38.500
South Korea 45.442 612 32.947
Luxembourg 42.250 418 33.486
Montenegro 42.148 597 32.097
El Salvador 42.132 1.212 38.260
Norway 41.852 395 34.782
Sri Lanka 34.121 154 24.867
Finland 31.459 466 20.000
Uganda 28.168 225 10.005
Australia 28.056 908 25.690
Latvia 26.472 357 17.477
Cameroon 25.359 445 23.851
Sudan 21.864 1.372 12.667
Ivory Coast 21.775 133 21.335
Estonia 18.682 157 11.669
Zambia 18.428 368 17.487
Madagascar 17.587 259 16.992
Senegal 17.216 350 16.243
Mozambique 17.042 144 15.117
Namibia 16.913 164 14.981
Angola 16.362 372 8.990
French Polynesia 15.870 97 4.842
Cyprus 15.789 84 2.057
Congo [DRC] 14.597 358 12.773
Guinea 13.457 80 12.713
Maldives 13.392 48 12.760
Botswana 12.873 38 10.456
Tajikistan 12.777 88 12.212
French Guiana 11.906 71 9.995
Jamaica 11.875 276 8.212
Zimbabwe 11.522 310 9.599
Mauritania 11.431 236 8.248
Cape Verde 11.395 110 11.055
Malta 11.303 177 9.420
Uruguay 10.418 98 6.895
Haiti 9.597 234 8.280
Cuba 9.588 137 8.592
Belize 9.511 211 4.514
Syria 9.452 543 4.494
Gabon 9.351 63 9.204
Réunion 8.534 42 8.037
Guadeloupe 8.524 154 2.242
Hong Kong 7.722 123 6.345
Bahamas 7.698 164 6.081
Andorra 7.382 79 6.706
Swaziland 6.912 132 6.476
Trinidad and Tobago 6.900 123 6.204
Rwanda 6.832 57 6.036
Democratic Republic Congo Brazzaville 6.200 100 4.988
Malawi 6.080 187 5.659
Guyana 5.973 156 5.144
Nicaragua 5.887 162 4.225
Mali 5.878 205 3.697
Djibouti 5.749 61 5.628
Mayotte 5.616 53 2.964
Martinique 5.575 42 98
Iceland 5.571 28 5.401
Suriname 5.381 117 5.231
Equatorial Guinea 5.195 85 5.061
Aruba 5.079 46 4.911
Central African Republic 4.936 63 1.924
Somalia 4.579 121 3.529
Burkina Faso 4.300 73 2.940
Thailand 4.246 60 3.949
Gambia 3.785 123 3.653
Curaçao 3.699 11 1.889
Togo 3.295 66 2.821
South Sudan 3.222 62 3.043
Benin 3.090 44 2.972
Sierra Leone 2.451 75 1.853
Guinea-Bissau 2.447 44 2.378
Niger 2.361 82 1.329
Lesotho 2.307 44 1.398
Channel Islands 2.192 48 1.339
New Zealand 2.100 25 2.032
Yemen 2.085 606 1.384
San Marino 1.982 52 1.685
Chad 1.784 102 1.611
Liberia 1.676 83 1.358
Liechtenstein 1.579 21 1.366
Vietnam 1.405 35 1.252
Sint Maarten 1.269 26 1.111
Gibraltar 1.104 6 1.040
Sao Tome and Principe 1.010 17 952
Mongolia 918 0 384
Saint Martin 801 12 675
Turks and Caicos 771 6 741
Taiwan 742 7 611
Burundi 735 1 640
Papua New Guinea 729 8 601
Diamond Princess 712 13 699
Eritrea 711 0 564
Monaco 678 3 609
Comoros 633 7 606
Faeroe Islands 530 0 506
Mauritius 524 10 489
Tanzania 509 21 183
Bermuda 456 9 247
Bhutan 438 0 404
Isle of Man 373 25 344
Cambodia 362 0 319
Cayman Islands 302 2 277
Barbados 297 7 273
Saint Lucia 278 4 240
Seychelles 202 0 184
Caribbean Netherlands 177 3 166
St. Barth 162 1 127
Brunei 152 3 147
Antigua and Barbuda 148 5 138
Saint Vincent and the Grenadines 98 0 81
Dominica 88 0 83
British Virgin Islands 76 1 72
Grenada 69 0 41
Fiji 46 2 38
Macau 46 0 46
Laos 41 0 34
New Caledonia 36 0 35
Timor-Leste 31 0 30
Saint Kitts and Nevis 28 0 23
Vatican City 27 0 15
Falkland Islands 23 0 17
Greenland 19 0 18
Solomon Islands 17 0 5
Saint Pierre Miquelon 14 0 14
Montserrat 13 1 12
Western Sahara 10 1 8
Anguilla 10 0 4
MS Zaandam 9 2 7
Marshall Islands 4 0 4
Wallis and Futuna 3 0 1
Samoa 2 0 2
Vanuatu 1 0 1
Dữ liệu trên được thống kê theo nguồn https://corona.kompa.ai/, https://ncov.moh.gov.vn/
TẤT ĐẠT
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement