Advertisement

icon icon img
Nhận bản tin

Liên hệ quảng cáo

Email: banbientap@baocungcau.net

Hotline: 0917 267 237

icon logo

Quên mật khẩu?

Có tài khoản? Đăng nhập

Vui lòng nhập mật truy cập tài khoản mới khẩu

Thay đổi email khác
icon

EU có thể cứu vãn kinh tế khỏi một cuộc đại suy thoái?

Vĩ mô

29/03/2020 02:01

Cùng với đà lây lan của dịch COVID-19 ở châu Âu, tác động đối với nền kinh tế của Liên minh châu Âu (EU) ngày càng rõ rệt, các ngành nghề bị ảnh hưởng đã lan rộng từ ngành ngoại thương và du lịch sang vận tải và dịch vụ ăn uống công cộng...

Việc thị trường chứng khoán châu Âu sụt giảm mạnh mới đây là dấu hiệu rõ rệt nhất. Chịu tác động kép từ sự lây lan của dịch COVID-19 và sự bất ổn của giá dầu thô, thị trường chứng khoán châu Âu đã có những biến động mạnh mẽ, đối với EU từng trải qua cuộc khủng hoảng nợ công và suy thoái kinh tế, việc thị trường tài chính biến động mạnh đủ để tác động đến tâm lý của các nhà quyết sách.

Đối diện với cả hai mặt trận là dịch bệnh và kinh tế

Trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 ở trong nước, ngày 8/3, Thủ tướng Italy Giuseppe Conte tuyên bố phong tỏa một số thành phố và ngày 9/3 tuyên bố phong tỏa trên khắp cả nước, thị trường chứng khoán của châu Âu và Mỹ cũng vì thế mà sụt giảm mạnh. Ngày 10/3, Ủy ban châu Âu (EC) cho biết “sẽ tận dụng mọi công cụ để bảo đảm nền kinh tế EU vượt qua khó khăn”.

Trước đó, lãnh đạo các nước châu Âu như Anh, Italy và Đức đều tuyên bố họ sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để đối phó với cuộc khủng hoảng. Chủ tịch EC Ursula von der Leyen nói rằng phải đối diện với cả hai mặt trận là dịch COVID-19 và tác động mà dịch này gây ra cho kinh tế. Bà cho biết tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn hiện nay là do dịch COVID-19 gây ra, và dùng cụm từ “khó khăn” và “giông bão” để chứng minh phán đoán tác động này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn của bà.

  Bà Ursula von der Leyen phải đối mặt với suy thoái kinh tế lớn nhất từ ​​trước đến nay của EU do COVID-19 gây ra. Ảnh: GETTY.

Bà Ursula von der Leyen phải đối mặt với suy thoái kinh tế lớn nhất từ ​​trước đến nay của EU do COVID-19 gây ra. Ảnh: GETTY.

Mặc dù EU đã không trực tiếp đề cập đến sự bất ổn của thị trường tài chính, nhưng tuyên bố này được đưa ra ngay sau khi thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh. Phán đoán của Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) cũng thay đổi rõ rệt sau khi thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh.

Trước đó, ECB cho rằng diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 mang đến rủi ro cho triển vọng kinh tế và hoạt động thị trường tài chính của Khu vực đồng euro. ECB đang theo dõi chặt chẽ diễn biến của dịch COVID-19 và tác động của nó, đồng thời chuẩn bị áp dụng các biện pháp phù hợp và có tính đối xứng khi cần thiết.

Sau khi thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, tại cuộc họp về chính sách tiền tệ của ECB được tổ chức vào ngày 12/3, Chủ tịch ECB Christine Lagarde cảnh báo rằng châu Âu sẽ phải đối diện với những tác động nghiêm trọng giống như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nếu không áp dụng các hành động khẩn cấp để đối phó với dịch COVID-19.

Có thể thấy, sau khi thị trường tài chính xuất hiện tình trạng bất ổn, phán đoán của ECB đối với dịch COVID-19 đã thay đổi, từ rủi ro ở mức trung bình trước đó sang rủi ro lớn có thể gây ra cuộc khủng hoảng tài chính.

Thực hiện cả chính sách tài chính và tiền tệ để đối phó với những tác động của dịch COVID-19Sau khi thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, EU đã nhanh chóng đưa ra một loạt các chính sách tài chính và ECB cũng đưa ra chính sách tiền tệ để đối phó với những tác động kinh tế của dịch COVID-19.

EC nới lỏng hạn chế về trợ cấp chính phủ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.
EC nới lỏng hạn chế về trợ cấp chính phủ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Chính sách tài chính: Nới lỏng hạn chế tài chính và đưa ra kế hoạch đầu tư

Theo các tài liệu do EC công bố, phản ứng chính sách liên quan đến lĩnh vực tài chính của ủy ban này hiện nay chủ yếu ở ba khía cạnh: Một là, nới lỏng hạn chế về trợ cấp chính phủ. EU có các quy định nghiêm ngặt đối với trợ cấp chính phủ của các quốc gia thành viên, trợ cấp chính phủ ngoài mức quy định phải được EC phê chuẩn.

Để khuyến khích các nước thành viên đối phó với dịch COVID-19, EC cho phép chính phủ trợ cấp cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh, cung cấp gói hỗ trợ khẩn cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và hỗ trợ cần thiết cho các ngân hàng để đảm bảo các gói trợ cấp của chính phủ có thể đến tay các doanh nghiệp thực sự có nhu cầu.

Hai là, nới lỏng hạn chế về chi tiêu tài chính. Trước những khó khăn kinh tế do dịch COVID-19 gây ra, việc các nước như Italy… đưa ra kế hoạch kích thích kinh tế chắc chắn sẽ làm tăng tỷ lệ thâm hụt tài chính và thay đổi kết cấu chi tiêu tài chính. Theo trình bày của Ủy viên châu Âu phụ trách các vấn đề kinh tế vào ngày 16/3, hạn ngạch tài chính mà EU và các nước thành viên có thể sử dụng sẽ sớm được tăng lên, các hạn ngạch nguồn vốn như tài trợ chính phủ và kéo dài thời hạn thu thuế sẽ tăng lên đến hơn 10% GDP.

Ba là, đưa ra kế hoạch đầu tư để đối phó với dịch COVID-19. Mục đích của kế hoạch này là hỗ trợ hệ thống y tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ, thị trường lao động và các lĩnh vực dễ bị tổn thương khác trong nền kinh tế. Tổng mức của kế hoạch đầu tư này là 25 tỷ euro.

EU đang đối mặt với suy giảm kinh tế chưa từng có.
EU đang đối mặt với suy giảm kinh tế chưa từng có.

Chính sách tiền tệ: không thay đổi lãi suất, tăng cường mua trái phiếu, nới lỏng yêu cầu giám sát vốn của ngân hàng 

Tại hội nghị chính sách tiền tệ được tổ chức vào ngày 12/3, ECB đã công bố bộ công cụ chính sách tiền tệ toàn diện mới nhất. Các biện pháp mới chủ yếu ở bốn khía cạnh: Một là, tăng thêm chương trình tái cấp vốn dài hạn mang tính tạm thời và nhanh chóng tăng cường tính thanh khoản vào thị trường tài chính của Khu vực đồng euro.

Hai là, đưa ra chương trình tái cấp vốn dài hạn theo mục tiêu (TLTRO) mới từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 để khuyến khích các ngân hàng cấp tín dụng cho các thực thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ba là, tăng quy mô mua trái phiếu, đến cuối năm 2020, mua thêm 120 tỷ euro trái phiếu.

Bốn là, nới lỏng tạm thời yêu cầu ngành ngân hàng phải giám sát các phương diện như tiền vốn và tính thanh khoản, bằng cách là các ngân hàng có thể sử dụng đầy đủ các biện pháp hòa hoãn theo các chỉ thị có liên quan, ECB sẽ cung cấp các gói ưu đãi và linh hoạt cho các ngân hàng áp dụng những biện pháp này. Tuy nhiên, ECB không thay đổi lãi suất mà thị trường rất quan tâm.

Hiệu quả tổng thể trong các chính sách của EU là có hạn

Trên thực tế, năm 2019 nền kinh tế EU vốn đã tăng trưởng tương đối chậm, kinh tế Đức giảm tốc và Italy ở bên lề đà tăng cường 0%. Dịch COVID-19 khiến nền kinh tế EU gặp nhiều khó khăn hơn, mặc dù các biện pháp đối phó của EU có nhiều điểm đáng khen ngợi, nhưng hiệu quả tổng thể có thể vẫn có hạn.

Một là, nới lỏng hạn chế tài chính tuy có thể làm tăng không gian hoạt động của chính phủ các nước thành viên, nhưng sẽ làm tăng thâm hụt của chính phủ. Trước yêu cầu mạnh mẽ của các nước như Italy…, EU đã nới lỏng các yêu cầu tài chính cho chính phủ của các nước thành viên, điều này có giá trị quan trọng đối với việc đối phó với dịch COVID-19 và cứu trợ nền kinh tế trong nước.

Phản ứng chính sách của ECB tương đối chậm chạp trước sự tấn công của dịch COVID-19.
Phản ứng chính sách của ECB tương đối chậm chạp trước sự tấn công của dịch COVID-19.

Tuy nhiên, đối với các quốc gia đã có tỷ lệ nợ công tương đối cao như Italy, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, việc tăng chi tiêu của chính phủ sẽ khiến nợ công tăng cao hơn nữa. EU vẫn thiếu các cơ chế thanh toán chuyển khoản nhằm vào các quốc gia cụ thể.

Hai là, hiệu quả của kế hoạch đầu tư để đối phó với tác động của dịch COVID-19 bị hoài nghi. Tổng mức của kế hoạch đầu tư này là 25 tỷ euro, trong đó có 7,5 tỷ euro là quỹ khởi động, tìm cách thúc đẩy dòng vốn đầu tư 17,5 tỷ euro còn lại. Tuy nhiên, 7,5 tỷ euro này không phải là khoản tiền mới tăng thêm, mà là khoản tiền hiện có trong tài khoản của các nước thành viên, là quỹ được EC phân bổ cho các nước thành viên vào năm 2019 nhưng chưa sử dụng hết, vốn phải trả lại vào năm 2020.

Để đối phó với những khó khăn kinh tế hiện nay, EC đang tìm cách hủy bỏ việc thu hồi khoản tiền này. Tuy nhiên, khoản tiền này phải nhanh chóng được đưa vào lĩnh vực đầu tư theo kế hoạch quỹ cơ cấu và đến trước niên hạn ngân sách mới thì mới có tính tích cực đối với việc đối phó với những tác động trong thời gian ngắn.

Ba là, phản ứng chính sách của ECB tương đối chậm chạp. Khác với các hành động cắt giảm lãi suất khẩn cấp của Anh và Mỹ, lý do khiến ECB đã không tổ chức hội nghị về sự bất ổn của thị trường chứng khoán là bởi sự lây lan của dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến công việc thường ngày của ECB, thậm chí một nhân viên của ECB đã được xác nhận nhiễm visrus SARS-CoV-2, khiến hơn 100 người bị cách ly, thống đốc ngân hàng trung ương của các nước cũng giảm thiểu việc đi lại.

Bốn là, coi trọng việc xây dựng cơ chế truyền dẫn tiền tệ, nhưng rủi ro của ngân hàng cũng sẽ tăng lên. Lý do khiến ECB không cắt giảm lãi suất lần này là bởi thiếu không gian giảm lãi suất trong tình hình lãi suất âm, do đó đã chuyển sang chương trình tái cấp vốn dài hạn theo mục tiêu và nhấn mạnh cơ chế truyền dẫn tiền tệ. Biện pháp này đã nhận sự khen ngợi của các nhà kinh tế bao gồm cả cựu Chủ tịch ECB Jean-Claude-Trichet.

Chương trình này tìm cách duy trì quy mô cấp tín dụng dài hạn, và đưa ra các gói ưu đãi lãi suất nhiều hơn cho các ngân hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng của Eurozone từng bị ảnh hưởng nặng nề sau cuộc khủng hoảng nợ công, với tỷ lệ nợ xấu tương đối cao, thị trường chứng khoán và các thực thể kinh tế bất ổn đều sẽ làm tăng gánh nặng vốn của các ngân hàng.

Thống kê tình hình dịch bệnh COVID-19

VIỆT NAM

1405

CA NHIỄM

35

CA TỬ VONG

1252

CA PHỤC HỒI

THẾ GIỚI

74.034.352

CA NHIỄM

1.646.692

CA TỬ VONG

52.025.064

CA PHỤC HỒI

Nơi khởi bệnh Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
Đà Nẵng 412 31 365
Hà Nội 174 0 167
Hồ Chí Minh 144 0 123
Quảng Nam 107 3 101
Bà Rịa - Vũng Tàu 69 0 65
Khánh Hòa 64 0 29
Bạc Liêu 50 0 48
Thái Bình 38 0 35
Hải Dương 32 0 29
Ninh Bình 32 0 28
Đồng Tháp 24 0 21
Hưng Yên 23 0 22
Thanh Hóa 21 0 19
Quảng Ninh 20 0 20
Bắc Giang 20 0 20
Hoà Bình 19 0 19
Vĩnh Phúc 19 0 19
Nam Định 15 0 15
Bình Dương 12 0 12
Cần Thơ 10 0 10
Bình Thuận 9 0 9
Bắc Ninh 8 0 8
Đồng Nai 7 0 4
Quảng Ngãi 7 0 7
Hà Nam 7 0 5
Quảng Trị 7 1 6
Tây Ninh 7 0 7
Trà Vinh 5 0 5
Lạng Sơn 4 0 4
Hà Tĩnh 4 0 4
Hải Phòng 3 0 3
Ninh Thuận 3 0 2
Thanh Hoá 3 0 2
Phú Thọ 3 0 3
Đắk Lắk 3 0 3
Thừa Thiên Huế 2 0 2
Lào Cai 2 0 2
Thái Nguyên 1 0 1
Cà Mau 1 0 1
Kiên Giang 1 0 1
Bến Tre 1 0 1
Lai Châu 1 0 1
Hà Giang 1 0 1
Quốc Gia Nhiễm bệnh Tử vong Phục hồi
United States 17.159.794 311.316 10.015.012
India 9.933.997 144.144 9.456.552
Brazil 6.974.258 182.854 6.067.862
Russia 2.734.454 48.564 2.176.100
France 2.391.447 59.072 179.087
Turkey 1.898.447 16.881 1.661.191
Italy 1.888.144 66.537 1.175.901
United Kingdom 1.888.116 64.908 0
Spain 1.771.488 48.401 0
Argentina 1.510.203 41.204 1.344.300
Colombia 1.444.646 39.356 1.328.430
Germany 1.388.184 23.916 1.025.000
Mexico 1.267.202 115.099 938.089
Poland 1.159.901 23.914 892.650
Iran 1.131.077 52.883 844.430
Peru 987.675 36.817 922.314
Ukraine 919.704 15.744 535.417
South Africa 873.679 23.661 764.977
Netherlands 639.746 10.246 0
Indonesia 636.154 19.248 521.984
Belgium 611.422 18.178 41.973
Czech Republic 594.148 9.882 516.786
Iraq 578.916 12.636 513.405
Chile 576.731 15.959 549.852
Romania 571.749 13.862 469.499
Bangladesh 495.841 7.156 429.351
Canada 477.353 13.702 388.018
Philippines 452.988 8.833 419.282
Pakistan 445.977 9.010 388.598
Morocco 403.619 6.711 362.911
Switzerland 394.453 6.316 311.500
Israel 363.287 3.030 340.145
Saudi Arabia 360.335 6.080 351.192
Portugal 358.296 5.815 283.719
Sweden 348.585 7.802 0
Austria 330.343 4.764 291.042
Hungary 288.567 7.381 83.940
Serbia 282.601 2.482 31.536
Jordan 267.585 3.465 230.274
Nepal 250.916 1.743 238.569
Ecuador 202.356 13.896 177.951
Georgia 198.387 1.922 167.281
Panama 196.987 3.411 164.855
United Arab Emirates 188.545 626 165.749
Azerbaijan 187.336 2.050 122.859
Bulgaria 184.287 6.005 87.935
Japan 184.042 2.688 155.547
Croatia 183.045 2.870 157.773
Belarus 165.897 1.291 143.373
Dominican Republic 156.585 2.372 121.988
Costa Rica 154.096 1.956 121.031
Armenia 150.218 2.556 128.694
Lebanon 148.877 1.223 104.207
Bolivia 147.716 9.026 126.720
Kuwait 146.971 913 142.909
Kazakhstan 143.735 2.147 128.218
Qatar 141.417 242 139.042
Slovakia 139.088 1.309 101.584
Guatemala 130.828 4.510 119.288
Moldova 130.329 2.650 112.677
Greece 127.557 3.870 9.989
Oman 126.835 1.480 118.736
Egypt 122.609 6.966 105.450
Denmark 119.779 975 83.801
Ethiopia 117.542 1.813 96.307
Palestine 115.606 1.048 90.952
Honduras 114.943 3.001 52.392
Tunisia 113.241 3.956 86.801
Myanmar 111.900 2.346 90.453
Venezuela 108.480 965 103.271
Bosnia Herzegovina 103.232 3.511 68.245
Slovenia 100.389 2.190 77.453
Lithuania 99.869 907 43.379
Paraguay 95.353 1.991 67.953
Algeria 93.065 2.623 61.307
Kenya 92.853 1.614 74.403
Libya 92.577 1.324 62.720
Bahrain 89.444 349 87.490
Malaysia 87.913 429 72.733
China 86.770 4.634 81.821
Kyrgyzstan 78.151 1.317 71.270
Ireland 76.776 2.134 23.364
Macedonia 75.597 2.194 51.493
Uzbekistan 75.396 612 72.661
Nigeria 74.132 1.200 66.494
Singapore 58.353 29 58.238
Ghana 53.386 327 52.048
Albania 50.637 1.040 26.381
Afghanistan 49.970 2.017 38.648
South Korea 45.442 612 32.947
El Salvador 42.397 1.219 38.481
Luxembourg 42.250 418 33.486
Montenegro 42.148 597 32.097
Norway 42.077 402 34.782
Sri Lanka 34.447 157 25.652
Finland 31.870 472 22.500
Uganda 28.733 225 10.070
Australia 28.056 908 25.690
Latvia 27.495 382 18.153
Cameroon 25.359 445 23.851
Sudan 21.864 1.372 12.667
Ivory Coast 21.775 133 21.335
Estonia 19.271 160 12.117
Zambia 18.456 369 17.635
Madagascar 17.587 259 16.992
Senegal 17.336 352 16.349
Namibia 17.276 164 15.196
Mozambique 17.143 145 15.241
Angola 16.362 372 8.990
French Polynesia 15.870 97 4.842
Cyprus 15.789 84 2.057
Congo [DRC] 14.930 364 12.859
Guinea 13.474 80 12.727
Maldives 13.392 48 12.760
Botswana 12.873 38 10.456
Tajikistan 12.815 89 12.253
French Guiana 12.026 71 9.995
Jamaica 11.907 276 8.371
Zimbabwe 11.522 310 9.599
Mauritania 11.431 236 8.248
Malta 11.415 180 9.516
Cape Verde 11.395 110 11.055
Uruguay 10.418 98 6.895
Cuba 9.671 137 8.658
Haiti 9.597 234 8.280
Belize 9.511 211 4.514
Syria 9.452 543 4.494
Gabon 9.351 63 9.204
Réunion 8.534 42 8.037
Guadeloupe 8.524 154 2.242
Hong Kong 7.804 123 6.439
Bahamas 7.698 164 6.081
Andorra 7.382 79 6.706
Swaziland 6.912 132 6.476
Trinidad and Tobago 6.900 123 6.204
Rwanda 6.832 57 6.036
Democratic Republic Congo Brazzaville 6.200 100 4.988
Malawi 6.091 187 5.661
Guyana 5.973 156 5.144
Nicaragua 5.887 162 4.225
Mali 5.878 205 3.697
Djibouti 5.759 61 5.628
Mayotte 5.616 53 2.964
Iceland 5.578 28 5.421
Martinique 5.575 42 98
Suriname 5.381 117 5.231
Equatorial Guinea 5.195 85 5.061
Aruba 5.079 46 4.911
Central African Republic 4.936 63 1.924
Somalia 4.579 121 3.529
Burkina Faso 4.300 73 2.940
Thailand 4.261 60 3.977
Gambia 3.785 123 3.653
Curaçao 3.699 11 1.889
Togo 3.295 66 2.821
South Sudan 3.222 62 3.043
Benin 3.090 44 2.972
Sierra Leone 2.451 75 1.853
Guinea-Bissau 2.447 44 2.378
Lesotho 2.365 46 1.423
Niger 2.361 82 1.329
Channel Islands 2.192 48 1.339
New Zealand 2.100 25 2.032
Yemen 2.085 606 1.384
San Marino 2.025 54 1.694
Chad 1.784 102 1.611
Liberia 1.773 83 1.406
Liechtenstein 1.600 21 1.377
Vietnam 1.405 35 1.252
Sint Maarten 1.269 26 1.111
Gibraltar 1.125 6 1.046
Sao Tome and Principe 1.010 17 952
Mongolia 918 0 384
Saint Martin 801 12 675
Turks and Caicos 771 6 741
Taiwan 749 7 612
Burundi 735 1 640
Papua New Guinea 729 8 601
Diamond Princess 712 13 699
Eritrea 711 0 564
Monaco 678 3 609
Comoros 633 7 606
Faeroe Islands 530 0 506
Mauritius 524 10 489
Tanzania 509 21 183
Bermuda 467 9 250
Bhutan 439 0 408
Isle of Man 373 25 344
Cambodia 362 0 319
Cayman Islands 302 2 277
Barbados 297 7 273
Saint Lucia 278 4 240
Seychelles 202 0 184
Caribbean Netherlands 177 3 166
St. Barth 162 1 127
Brunei 152 3 148
Antigua and Barbuda 148 5 138
Saint Vincent and the Grenadines 98 0 81
Dominica 88 0 83
Grenada 85 0 41
British Virgin Islands 76 1 72
Fiji 46 2 38
Macau 46 0 46
Laos 41 0 36
New Caledonia 37 0 35
Timor-Leste 31 0 30
Saint Kitts and Nevis 28 0 23
Vatican City 27 0 15
Falkland Islands 23 0 17
Greenland 19 0 18
Solomon Islands 17 0 5
Saint Pierre Miquelon 14 0 14
Montserrat 13 1 12
Western Sahara 10 1 8
Anguilla 10 0 4
MS Zaandam 9 2 7
Marshall Islands 4 0 4
Wallis and Futuna 3 0 1
Samoa 2 0 2
Vanuatu 1 0 1
Dữ liệu trên được thống kê theo nguồn https://corona.kompa.ai/, https://ncov.moh.gov.vn/

(Nguồn: TTXVN)

CHẤN HƯNG
iconChia sẻ icon Chia sẻ
icon Chia sẻ

Advertisement